|
Post by long on Aug 21, 2020 15:40:45 GMT -6
Cho bé út !
NỖI NHỚ NHỮNG CƠN MƯA CHIỀU ĐÀ LẠT
Tôi nhớ nhất là những cơn mưa Đà Lạt. Không đến đột ngột rồi trôi tuột đi trong cái ướt át dầm dề, cuồn cuộn sình lầy như Sài Gòn, mưa Đà Lạt cứ lặng lẽ, nhỏ bé
Chưa có dịp đi nhiều, nhưng thật lạ là mỗi lần được đi du lịch tới những vùng đất mới, tôi lại được chứng kiến cảnh mưa rơi của nơi ấy, đừng nói mưa nơi nào cũng giống nhau. Xa thành phố cao nguyên bé nhỏ mang tên Đà Lạt, tôi cố tìm cho mình một lý do trong hàng vạn lý do để níu bước chân lại, bởi nơi đây có quá nhiều điều để vấn vương, lưu luyến. Nhưng có lẽ, tôi nhớ nhất là những cơn mưa Đà Lạt. Không đến đột ngột rồi trôi tuột đi trong cái ướt át dầm dề, cuồn cuộn sình lầy như Sài Gòn, mưa Đà Lạt cứ lặng lẽ, nhỏ bé hóa thành những đóa hoa thủy tinh nhỏ xíu, vương trên tóc, trên tà áo cô thiếu nữ hai má hồng đào, như muốn gửi chút tâm tình của Đà lạt cho mỗi du khách thập phương. Đó là mưa phùn. le hoi mua da latĐể ý cứ đến khoảng tháng sáu trở đi, người ta rỉ tai nhau:” Muốn tìm cảm giác lãng mạn không? Lên Đà Lạt nhé, mùa này đang mưa”. Thiệt lạ phải không? Vâng, Đà lạt là nơi thỏa mãn những nhu cầu lãng tử dù dị thường nhất của mỗi người. Bởi dẫu nắng hay mưa, Đà lạt vẫn đẹp, vẫn nên thơ hơn tranh vẽ.
Mưa phùn thường xuất hiện vào buổi chiều trở đi, vừa lúc ấy hoàng hôn phủ xuống màu huyết dụ buồn bã. Mưa giăng. Trắng xóa những tàn cây ngọn cỏ. Những giọt mưa nhỏ như hạt pha lê vụn cứ âm thầm rơi nghiêng theo hơi thở của gió, lất phất vào mặt. Tôi co lại, không bởi cái lạnh, mà dường như muốn ôm trọn vào lòng mình thứ gì đó quá đỗi mong manh. Người ta ví mưa trắng đất trời, với tôi thì mưa Đà Lạt không có màu trắng, nó có màu của cuộc sống. Cơn mưa phùn buổi sáng trong trẻo, mát lành hơn trong hơi sương, một chút lành lạnh áp vào da thịt tạo nên sự thích thú kì lạ.Trong cái mờ ảo của thành phố Đà Lạt vào buổi sáng sớm, làn sương trắng như bông trôi bồng bềnh trên mái nhà, cuộn lại như chiếc vương miện dành cho nàng công chúa e thẹn, khép nép. Mây hay sương đó, mà gần gũi như những đôi tay đan vào nhau quyến luyến. Tôi mở toang cửa sổ, mặc cho cái lạnh buổi sớm mang hương thông ngan ngát ùa vào khắp phòng, mặc cho những tấm chăn kéo lên vội vàng, tôi đưa tay hứng vội những giọt long lanh của đất trời chớm nở. Lấp xấp những mái nhà thấp, cao, chìm cả vào trong mây và những hạt mưa bụi thoảng nhẹ trong hơi gió, nhìn xa xa như những mũ nấm màu rơm đang nấp vội đùa nghịch với mây. Đà Lạt buổi sớm đẹp tựa như cô bé vừa giã từ thời thơ ấu, cởi bỏ chiếc vòng hoa đội đầu, em chạm vào tất cả, bừng dậy một sức sống khỏe khoắn, gọi về những ước mơ đẹp đẽ. Em mang nhựa sống dạt dào cho từng ngọn cây, từng bông hoa không tên, em mang cho tâm hồn con người cái náo nức lạ lùng. Có cái gì đó rất mong manh và tinh nghịch của buổi sớm mưa Đà Lạt. Dù sao Em cũng vẫn chỉ là một cô gái nhỏ, chưa hề vương bụi trần.
Những cơn mưa tẩy đi bụi trần
Tôi ngóng mặt trời lên cao bằng những bước chân rảo quanh chợ Đà Lạt. Dù ở buổi nào trong ngày cũng mang vẻ tĩnh tại rất duyên, rất đằm. Đà Lạt hầu như ít mưa vào buổi trưa. Cách đây mười năm, người ta còn phải run mình vì cái lạnh buổi trưa của Đà lạt, vì buổi trưa nơi cao nguyên này không hề có nắng. Không khí vẫn mang hơi ẩm dịu dàng, dễ chịu, trời cứ âm âm, không chút nào gay gắt khiến những thiếu nữ Đà lạt luôn tự hào khoe đôi má hồng đào và làn da trắng như sữa là vậy. Còn giờ đây, vào buổi trưa Đà lạt không còn lạnh, đủ để người ta diện một chiếc áo tay ngắn mà phông phênh xuống phố hay đi tham quan. Nhưng dẫu sao, nắng Đà lạt vẫn ngọt, cứ chậm rãi nhỏ từng giọt mật ong vàng óng, một lát thôi là cả thành phố phủ đầy mật nắng, cây cối, nhà cửa, mặt người cùng ánh lên như thủy tinh dưới nắng. Vì có cây cối bao phủ, nên dẫu nắng cỡ nào, tôi vẫn không cảm thấy nóng nực và bực bội. Nắng ư? Hãy cứ dạo bước, rồi khi mệt, kiếm một gốc thông nào đó trú chân. Ngồi dưới những tán thông xanh ươm, reo rì rào trong gió, bạn sẽ thấy tinh thần dịu mát và sảng khoái lạ lùng. Còn gì thích thú hơn là bắc võng giữa hai gốc thông nghỉ ngơi trong một buổi trưa yên ả, nghe tiếng thông hát khúc trầm ca? Vốn không đợi mưa vào buổi trưa, tôi dựa vào gốc cây, ngước lên nhìn mặt trời lấp lánh sau vòm lá. Cái chói chang thường ngày của vị thần sức mạnh ấy đâu, mà giờ đây tôi thấy như một hạt kim cương khổng lộ đang vắt chênh vênh trên những ngon cây vun vút cao kia? Thế đó, buổi trưa Đà Lạt - cô bé của chúng ta ngày nào bước chân vào tuổi mới lớn, một chút dỗi hờn, ương bướng, nhưng nét đáng yêu và bình yên nào dễ dàng chối bỏ.
Đường đèo Đà lạt lặng tắt nắng, bàn tay hoàng hôn đan vào những đám mây, bờ môi màu huyết dụ chạm khẽ tầng trời, mải lang thang ở đồi Mộng Mơ, chiều xuống lúc nào tôi không hay. Thảng thốt như em bé lạc mẹ giữa chốn rừng núi mênh mông, đồi Mộng Mơ tuy chẳng còn hoang sơ lắm, thế mà cơn mưa chiều bất chợt đổ xuống không báo trước, không còn là mưa phùn mỏng như tơ, đây là cơn mưa của núi, của rừng, cơn mưa của khao khát và tự do, tôi bỗng thấy mình cô đơn lạc lõng đến vô cùng… Mưa chiều Đà Lạt. Khoảng đồi thông chìm vào một màu tím u buồn, sầu thảm. Không phải mưa nơi xứ Huế, vậy mà sao tôi vẫn thấy cả một khoảng trời màu tím ngắt, tím tê tái tâm hồn, những giọt nước mắt cũng hòa vào màu tím, những tâm hồn yêu thương và lạc lõng được tấm áo nhung lụa ướt át choàng lấy, ôm vào mình bao nỗi đơn côi. Bạt ngàn những cánh tay thông xanh trĩu xuống như đôi mắt người thiếu phụ mênh mang buồn. Lá đổ muôn chiều, trong tiếng mưa rào rạt nghe vọng về một dư âm xa vắng, phảng phất khoái cảm của tâm hồn đang ướt mềm trong mưa.
Sẽ có một lúc nào đó giữa muôn trùng đồi núi, ta thấy mình nhỏ bé và đáng thương như lúc này. Ai đang vui sẽ trở nên buồn, ai đã buồn xin hãy để nỗi buồn cứ theo mưa mà thấm vào khoảng hồn trống vắng, để cảm xúc theo cung bậc cứ nhẹ nhàng lên ngôi. Để ta thấy cuộc đời này, mọi thứ rồi cũng sẽ dần phôi pha. Nhưng “…làm sao em biết bia đá không đau…” (Diễm xưa). Muốn chạm được vào tâm hồn của cả đá sỏi vô tư, đừng ngồi ngóng mưa qua trong một quán cà phê nào đó nơi Đà lạt, hãy đi đi, sải bước chân tự do lãng tử, tìm đến chốn núi đồi mông mênh. Và hãy đứng đó, trên những triền dốc vắng, hãy lặng người đi nghe tiếng mưa hát, nghe tiếng khóc âm i của gió và thông, để đi trọn cùng nỗi buồn. Để cúi xuống bên những hàng cát sỏi, nhặt lên và hôn vào ấy, gửi lại Đà Lạt một nửa hồn thương đau…
Chiều mưa Đà Lạt. Cô thiếu nữ ngày nào giờ lỡ làng mối tình đầu, đôi mắt cô cứ âm thầm nhòe nước, mái tóc màu huyết dụ của cô lất phất bay trong chiều gió lạnh, mây quyện trong vạt váy tím đưa cô lặng lẽ về cuối trời…"Chiều nay còn mưa sao em không lại? Nhớ mãi trong cơn đau vùi..."
"Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động..." .Người ta yêu Đà lạt vì những cơn mưa, nhưng cũng sợ Đà lạt vì Đà Lạt hay mưa. Ta sợ cái buồn của thành phố hoa mỗi khi mưa xuống, đã buồn nay càng thêm da diết, tê tái. Cái buồn rưng rức lê thê, dù Đà Lạt không hay mưa dầm. Nhưng cũng thật lạ, tôi thấy Đà Lạt càng buồn thì càng đẹp. Cảnh vắng người thưa, phố đêm chìm vào cơn mưa trong buốt giá… Đứng trên triền dốc vắng, như đứng bên lề cuộc đời tấp nập, tôi tưởng tượng đến một ngày Đà Lạt không còn nét hoang sơ trữ tình níu chân lữ khách, mềm lòng hồn ai, tôi không biết mình có đủ can đảm trở lại Đà Lạt chăng?
Nến, hoa hồng, ly sữa tươi nóng, tiếng hát, và sự lặng im. Dương Tùng quán đáp ứng cho mọi khoái cảm lãng mạn của con người khi đặt chân đến thành phố sương mù. Tối nay, giọng hát mênh mang của người ca sĩ phòng trà chốn sương rơi quyện vào tiếng guitar ấm áp, mọi cảm xúc lên ngôi. Ngoài trời mưa rất nhiều. Quán nằm khuất trong ngõ vắng, khiến cái lạnh Đà Lạt dễ dàng len vào qua khung cửa. Tôi quay mặt ra ngoài trời. Nước mắt tôi, sao lại rơi khẽ khàng mà vô vọng như thế?
Đêm Đà Lạt - cô gái trẻ ngày nào ôm mối tình thầm bước qua tuổi hoàng hôn. Ai vẽ mà tài hoa thế, bầu trời Đà lạt dát đầy bụi cam tím, mây vằn vệt như những giọt mưa ngắn dài chảy theo khung cửa sổ đêm nay.
|
|
|
Post by utlan on Aug 21, 2020 17:47:18 GMT -6
Merci beaucoup.
|
|
|
Post by long on Aug 22, 2020 19:25:28 GMT -6
Post tiếp cho bé Út !
Sự tích Đồi Thông Hai Mộ
Chuyện xảy ra vào năm 1956, cậu sinh viên Vũ Minh Tâm (Vĩnh Long) học tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt). Anh đem lòng thương một thiếu nữ người địa phương, tên là Lê Thị Thảo, giáo viên dạy Văn trường Bùi Thị Xuân.
Mỗi ngày từ bãi tập về, Tâm thường ghé qua một ngôi nhà cạnh hồ Than Thở và đặt một lá thư tình dưới mái nhà tranh. Chiều đi dạy về, cô Thảo cũng đến ngôi nhà bên hồ để đọc thư chàng gửi, và để gửi lại một lá thư cho chàng. Thời gian trôi qua, tình cảm của cả hai càng thêm thắm thiết. Tâm và Thảo đã ước hẹn nên duyên vợ chồng, chờ ngày anh ra trường sẽ làm lễ cưới.
Thế nhưng vì hoàn cảnh của Thảo khá khó khăn, cô vốn là trẻ mồ côi được các Sơ nhà thờ nuôi dạy từ nhỏ, còn Tâm lại là con trai độc nhất của một gia đình điền chủ giàu có ở Vĩnh Long.
Chính vì sự chênh lệch về giai cấp, nên khi gia đình anh Tâm biết được chuyện của hai người liền ra sức ngăn cấm.
Ngày anh Tâm tốt nghiệp, gia đình bắt anh phải về quê cưới một người con gái giàu sang mà họ đã chọn sẵn. Vì giữ tròn chữ hiếu, anh Tâm đành rời xa cô Thảo. Khi biết tin anh Tâm đã có gia đình, cô Thảo như rơi vào tuyệt vọng. Và rồi một buổi chiều tháng 3/1956, cô đã gieo mình xuống hồ Than Thở để kết thúc cuộc đời. Trước khi tự tử cô Thảo đã xé tà áo dài trắng viết lên 2 câu thơ để lại trên bờ hồ :
“Tà áo trắng nay tình ta đã hết Chút tình này xin trả lại cho nhau”
Đồng thời cô cũng để lại một bức thư nhờ người đời nếu ai vớt được xác của cô thì hãy chôn ở đồi thông bên cạnh hồ Than Thở – nơi ngày xưa hai người từng hẹn hò, để cô được ở cạnh những ký ức của mình”.
Vài tháng sau đó anh Tâm quay trở lại Đà lạt thì hay tin người mình yêu đã chết. Chàng trai ra mộ nàng gần hồ Than Thở, than khóc một hồi lâu rồi quyết định viết đơn nhập ngũ. Trong một lần lâm trận, chàng đã bị thương rất nặng không thể cứu chữa được. Trước khi mất anh nhờ bạn bè đưa thi thể về Đà Lạt chôn cạnh mộ của cô Thảo và làm cho hai người một tấm bia chung, viết lên đó những dòng thơ trong cuốn nhật ký của anh, để trọn tình nghĩa với người anh yêu.
Trong cuốn nhật ký, anh Tâm viết về mối tình của mình như sau:
“Nước biếc non xanh dù biến đổi Mối tình chung thủy Thảo trong Tâm Chiều chưa xuống mà nắng vàng vội tắt Đêm chưa về mà cỏ đã đầm sương Cả núi rừng ngấn lệ tiếc thương. Cho mối tình ngang trái của đôi uyên ương không thành…”
Ít lâu sau, người vợ của anh Tâm lên Đà Lạt thấy hai ngôi mộ liền kề nhau đã đem lòng ghen tức. Cô để cho hai người nằm cạnh nhau được 3 năm. Mãn tang, cô liền đem thi hài anh về Vĩnh Long để chôn cất.
|
|
|
Post by bacht on Aug 23, 2020 17:25:02 GMT -6
Cám ơn anh L đã post những câu chuyện hay ..
|
|
|
Post by long on Aug 23, 2020 17:29:33 GMT -6
Cám ơn anh L đã post những câu chuyện hay .. De rien em Bạch. Có mấy em thích lãng mạn nên anh cũng ráng lết thân già kiếm bài rồ men tịch.
|
|
|
Post by long on Aug 24, 2020 13:42:36 GMT -6
Chuyện tình buồn bên Hồ than thở
Đó là câu chuyện tình chung thủy của Hoàng Tùng và Mai Hương gắn liền với điểm du lịch Đà Lạt này từ thế kỷ 18. Họ là một cặp đôi đẹp trong vùng, khi giặc ngoại xâm giày xéo quê nhà, Hoàng Tùng chia tay người yêu lên đường cứu nước và chính bên hồ này, họ gặp nhau hẹn ngày trở về đoàn tụ. Nhưng chẳng bao lâu, Mai Hương ở nhà nghe tin Hoàng Tùng tử trận. Nàng đau lòng ra hồ than khóc, rồi gieo mình xuống dòng nước tự vẫn.
Một thời gian sau, Hoàng Tùng thắng trận trở về. Đau xót trước cái chết của người yêu và nhớ lại lời thề hẹn lúc trước, chàng trai cũng chọn kết thúc cuộc đời mình giữa hồ nước xanh thẳm để đoàn tụ với người yêu nơi chín suối. Cảm thương đôi tình nhân chung thủy, người đời gọi tên “hồ Than Thở”.
|
|
|
Post by bacht on Aug 24, 2020 17:07:24 GMT -6
Cám ơn anh L đã post những câu chuyện hay .. De rien em Bạch. Có mấy em thích lãng mạn nên anh cũng ráng lết thân già kiếm bài rồ men tịch. Cái này là anh L tự nhận già đó nhe còn Anh D thì Forever young ... theo em Bạch là vậy
|
|
|
Post by bacht on Aug 24, 2020 17:17:37 GMT -6
Chuyện tình buồn bên Hồ than thở Đó là câu chuyện tình chung thủy của Hoàng Tùng và Mai Hương gắn liền với điểm du lịch Đà Lạt này từ thế kỷ 18. Họ là một cặp đôi đẹp trong vùng, khi giặc ngoại xâm giày xéo quê nhà, Hoàng Tùng chia tay người yêu lên đường cứu nước và chính bên hồ này, họ gặp nhau hẹn ngày trở về đoàn tụ. Nhưng chẳng bao lâu, Mai Hương ở nhà nghe tin Hoàng Tùng tử trận. Nàng đau lòng ra hồ than khóc, rồi gieo mình xuống dòng nước tự vẫn. Một thời gian sau, Hoàng Tùng thắng trận trở về. Đau xót trước cái chết của người yêu và nhớ lại lời thề hẹn lúc trước, chàng trai cũng chọn kết thúc cuộc đời mình giữa hồ nước xanh thẳm để đoàn tụ với người yêu nơi chín suối. Cảm thương đôi tình nhân chung thủy, người đời gọi tên “hồ Than Thở”. Những câu chuyện về Đà Lạt thật là buồn .... chiến tranh đã làm bao nhiêu mối tình đẹp phải chia ly , xa cách ... lần nữa cám ơn anh L đã post thêm truyện đọc ..
|
|
|
Post by utlan on Aug 25, 2020 16:41:11 GMT -6
Dạ mấy truyện này buồn quá, anh L có truyện vui kg ạ?
|
|
|
Post by long on Aug 25, 2020 17:03:09 GMT -6
Dạ mấy truyện này buồn quá, anh L có truyện vui kg ạ? D’accord ! Để anh kiếm rồi post cho đọc.
|
|
|
Post by long on Aug 26, 2020 17:16:46 GMT -6
Tôi như nhiều người rất yêu thích thành phố mù sương Đà lạt, cũng như yêu thích những dòng nhạc của Lê Uyên Phương (LUP), nhạc của ông tạo cho tôi những kỷ niệm, dù là ở Sài gòn hay Đà lạt, tại sân trường Luật khoa, trên đường Duy Tân ngày nào, hay bên ly cà phê nóng ngồi trong quán Cà phê Tùng ở khu Hòa Bình của Đà lạt, khi mà trời lạnh về khuya bên ngoài và bên trong ấm áp với nhạc của LUP: www.nhaccuatui.com/bai-hat/mot-ngay-vui-mua-dong-le-uyen-phuong.8Vnr2aNsvO.htmlĐà lạt trong ký ức của tôi khi đưa tâm trí quay về những ngày tháng xa xưa, với những buổi họp mặt bạn bè, ôm đàn guitare trên những bãi cỏ xanh mướt của Đồi Cù, xa xa là cái tháp chuông nhà thờ với dáng hình con gà đặc thù xuôi hướng Nam, và tháp bút của Lycée Yersin nhìn trên cao trời xanh ở hướng Đông Đà Lạt, các bạn tôi ca hát nhạc bên ngoài thiên nhiên quang đãng, hẵn phải có nhạc LUP. www.nhaccuatui.com/bai-hat/loi-goi-chan-may-le-uyen-phuong.S62nhvkqNz.html Còn nhớ chăng buổi picnic ở gần Suối Cam Ly, rồi ngoài Vườn Bích Câu? Rồi có lần viếng foire église tại Domaine de Marie trên đồi Mai Anh, trên đường Ngô Quyền, kỷ niệm nào tản bộ vào những buổi chiều tà bên Hồ Xuân Hương, hồ đưa ta theo đến Đồi Cù và Séminaire Pontifical (Seminarium Pontificale hay Giáo hoàng Chủng viện Piô X) kéo dài đến tận Ngã Năm Đại học, một con đường thật thơ mộng của thị xã của Đà Lạt, từ đây quá bộ sang Khu Hòa Bình, nơi có ngôi chợ nhộn nhịp và tấp nập của sức sống thương mại Đà Lạt, ghé qua nhà hàng Mekong hay Shanghai, một buổi điểm tâm, ăn trưa hay ăn chiều, cái thú vui nhìn xuyên qua màn kiếng trong vắt ngó những ông đi qua bà đi lại khi tán gẫu với partenaire ngày nào. Lê gót bên nhau xơi chung những chiếc bánh éclair hay choux à la cream khi bước ra từ cửa hiệu Thanh Nhàn, hay chia chung khúc bánh mì baguette còn nóng hổi và thơm hương bánh mới của lò bánh Vĩnh Chấn ngày xưa. www.nhaccuatui.com/bai-hat/tinh-khuc-cho-em-le-uyen-phuong.1v2O9cpLj8.html Đà lạt trong ký ức như những ngày ngồi quán cà phê, thưởng ngoạn những tách cà phê thơm lừng của vùng cao nguyên núi đồi Đà lạt, cà phê Thủy Tạ hoặc Thanh Thủy với hướng nhìn ra mặt hồ Xuân Hương im lìm phẳng lặng, ôi sao thật thơ mộng! Cà phê Thủy Tạ mang vẻ ấm cúng thân mật loại "café réel" thú vị nghe nhạc vào những buổi chiều đông khách, còn quán cà phê Thanh Thủy có nét đẹp như loại thanh lịch "café occidentale" mới mẻ hơn. Đà lạt có nhạc LUP: www.nhaccuatui.com/bai-hat/cho-lan-cuoi-le-uyen-phuong.ZPrdAHv3W4.htmlNhà chú tôi trên dốc cao của con đường Duy Tân. Đến xứ sương mù khi ngắm nhìn mưa phùn rơi nhẹ vào buổi ban mai hay chút se lạnh của màn sương chiều thả nhẹ xuống những khu phố Đà lạt. Những con đường của phố xá Đà lạt nghe như thân quen với những Hoàng Diệu, Chi Lăng, Tăng Bạt Hổ, Duy Tân, Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Pasteur, Phan Đình Phùng, và từ Khu Hoà Bình thả xuôi dốc Trương Công Định xuống phố đi ăn hàng... Đà lạt của những ngày vui. www.nhaccuatui.com/bai-hat/hay-ngoi-xuong-day-le-uyen-phuong.LtkBsNO4Cb.htmlThời gian như ngái ngủ trong những ngày vui qua mau của dĩ vãng xa xưa tưởng chừng đã quên, nhưng hôm nay nhân đọc bài viết của nhà văn Song Thao viết về Lê Uyên Phương và Đà lạt, khiến Đà lạt vực dậy mãnh liệt từ trong trí nhớ cũ. www.nhaccuatui.com/bai-hat/bai-ca-hanh-ngo-le-uyen-phuong.FOaPIh6wYQ.html Hình như những ngày xưa chưa thật đã xa xưa, tôi vẫn còn nhớ rõ, rõ lắm. Những lữ khách đến thăm viếng Đà lạt, nghe hát rồi ngợi ca về Đà lạt. Đà lạt của LUP, và của nhiều người yêu nó. Vâng, phải nói như thế: Đà lạt rất "dễ yêu", như cái từ ngữ của cô xướng ngôn viên Ngọc Ân đã dùng. Khi quay lại với kỷ niệm cũ, miên man rong ruổi tâm tư về những buổi chiều lãng đãng mù sương trên vùng đất cao nguyên Lâm Viên, nơi đã tạo cho LUP những xúc cảm sáng tác âm nhạc "dễ yêu" và đặc thù của ông. Và rằng hôm nay dường như tôi đang bừng sống lại với cái hoài niệm về dòng nhạc LUP trong dư âm của những giai điệu với nhiều xúc cảm và thật đáng nhớ, rất "dễ yêu" trong tâm tư tôi. Đúng vậy. ninh-hoa.com/VietHai-BanTinhCaMuaXuan.htmViệt Hải Los Angeles
|
|
|
Post by long on Aug 28, 2020 15:34:12 GMT -6
TÙY BÚT Ở ĐÀ LẠT
Tôi không còn nhìn thấy bóng hình Tam Đảo từ khi chưa biết mơ mộng ngắm nhìn núi non, để Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì như nhà thơ Quang Dũng, tôi di cư vào Miền Nam tự do từ thuở nhỏ. Tam Đảo của quê ngoại tôi, nghe nói chỉ cách Ba Vì khoảng hai mươi cây số. Tam-Đảo-Ba-Vì-nhìn-nhau, dù sao tôi cũng không thể tưởng tượng để viết một bài thơ, có nhan đề ví dụ vậy. Tuổi nhỏ của tôi giữa rừng thông Đa Thọ - Đà Lạt, bây giờ nhớ lại là những lát bánh mì quết mứt cà chua điểm tâm hoài không ngán, đống củi đốt lên ấm lửa trong sớm sương chiều lạnh, và những chuyến tàu dừng lại ở ga xép Đa Thọ.
Ga xép Đa Thọ, bài thơ tôi viết năm hai mươi tuổi, bây giờ Ta về nghiêng mái đầu sương điểm (Thơ Tô Thuỳ Yên) quá nhớ thương tới xót xa:
Khoảng thời gian xa ấy Đâu rõ tên tuổi nàng Mưa và rừng xô chạy Tàu đã tới ga chăng
Rừng bước xuống thung lũng Bụi dã quỳ trông mưa Những đoá sầu gió dựng Vai gầy áo chợt thưa
Khoảng thời gian xa ấy Tôi nào quen biết em Tuổi thanh xuân buồn vậy Mở mắt nhìn thâu đêm
Những đêm sâu Đa Thọ Cây đèn bão lửa im Tàu sắp qua ga nhỏ Tàu sắp qua đường tim
Tàu sắp qua. Còi hụ Em đăm nhìn bụi hoa Mỗi nhành quỳ thêm nụ Tràn ven đồi tàu qua
Khoảng thời gian xa thật Tâm tưởng có phai mờ Đôi mắt nàng bí mật Mang hồn đồi hoang sơ.
Hai mươi tuổi, lên xuống những chuyến tàu xuôi ngược trên đường ray móc xích Đa Thọ - Đà Lạt, những dòng thơ của Trần Dạ Từ ở trong tâm tư, ở ngoài cảnh tượng: Nhịp máy liên hồi kéo bước chân qua / Tiếng còi không, tiếng còi không, sắt động / Và gió và gió và gió điên cuồng / Gió điên cuồng hút thịt xương đêm tối / Và rừng và rừng và rừng ôi rừng / Những kẻ giơ tay tình nguyện đời chạy đuổi... Đà Lạt, đường phố dốc lên cao, nhà thờ có hình tượng con gà trên chóp đỉnh cột thu lôi. Vào một quán cà phê, viết tên cô bé tưởng tượng trên khung kính mờ sương, Cybèle là si belle, ví dụ... Đà Lạt như vậy, như Ville d’Avray, có rừng thông có hồ nước có nhà thờ con gà... Ville d’Avray, nơi Corot đã sống và vẽ. Viết tên Cybèle giữa khung kính mờ sương, tưởng tượng nhân vật của một cuốn phim — Les dimanches de Ville d’Avray — là cô gái nhỏ đẹp xinh có thật, đã đi qua một đoạn đời tôi.
Đà Lạt vẫn vậy, dù đã nhiều người cho rằng Đà Lạt quá thay đổi để không còn là Đà Lạt. Thây kệ, những ngôi nhà vẫn thiếp ngủ, những lũng đồi vẫn mơ màng, những tối chưa khuya mà con đường đóng băng trong tịch mịch. Ồ, một buổi chiều mới đây, cụm sương mù như một cụm mây nở rộng trắng xoá một vùng, từ từ rơi xuống ngoài cửa kính quán cà phê Tùng. Ngã ba rộng rinh trước quán đón nhận cụm sương hiếm hoi lạ lùng, cho tôi sẵn lòng đón nhận Đà Lạt của một ngàn năm trước.
Đà Lạt vẫn là Đà Lạt, thây kệ những nhà cửa mọc lên phô phang hợm hĩnh, những người những xe những ngột ngạt xô bồ của giành giật mưu sinh. Thây kệ hồ nước Xuân Hương đang mở trừng con mắt cạn khô, con mắt chết oan khiên, thây kệ đồi Cù từ lâu quây chắn bưng bít, tôi cùng Đà Lạt cố nhân ngồi xuống bãi cỏ nào cũng được, bãi cỏ nào mà chẳng được nuôi nấng bởi đất đồi này.
Trong quán cũ, tôi biết người con ông Tùng - ông Tùng chủ quán đã mất - không chịu nhượng lại cho ông hoạ sĩ một thời danh mấy bức tranh xưa, dù với giá rất cao. Tôi nhìn bức tranh của Cù Nguyễn, cô gái choàng khăn tím, bàn tay dưới cằm, bây giờ ẩn chìm trong mờ tối của chiếc bàn cà phê độc nhất ở chỗ này, một chỗ của người quá vãng. Ngoài ánh sáng hừng lên buổi xế chiều, người nghệ sĩ đàn ghi-ta của cố hoạ sĩ Vị Ý càng khắc khoải trong lòng quán cũ. Hoài nhớ bài thơ thanh xuân, bài thơ của nỗi sầu cơn mộng kêu đòi, tôi vừa chia tay một người thân yêu duy nhất, ra đi vĩnh viễn không trở lại, có Đà Lạt buổi xế chiều này chứng kiến.
Đà Lạt, cuối tháng 11.2010
NGUYỄN ĐẠT
|
|
|
Post by long on Aug 30, 2020 13:30:48 GMT -6
BIỂN TIGÔN
Tôi đã viết nhiều truyện về nước mắm, chẳng phải tôi là người dân xứ nước mắm mà chỉ vì hằng ngày tôi thường ăn nước mắm. Chúng ta dễ quên đi những điều thường ngày. Tôi nghĩ nếu có lần bạn thử không quên và hết sức chú ý đến chúng, điều thường ngày sẽ có khối chuyện hay xảy ra.
***
Hàng ngày thay mặt ông chủ, tôi thường liên hệ với các nhà lều sản xuất nước mắm ở Phan Thiết, nhưng đặt chân đến đó thì chưa bao giờ. Sáng nay, bận công việc đột xuất, ông chủ giao tôi theo xe tải từ Đà Lạt xuống Phan Thiết nhận hàng. Hàng của chúng tôi không phải là nước mắm mà là "xác mắm" - loại phân bón tối ưu cho các nhà vườn trồng légumes ở Đà Lạt. Bạn đã bao giờ thấy xác mắm chưa? Đó là xác những con cá nát bấy được vét từ đáy những thùng muối mắm. Thấy xác mắm, bạn sẽ quên nó ngay vì nó chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu đã ngửi nó một lần trong đời, chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên nó được.
Xe tải đến Phan Thiết lúc hai giờ chiều. Trời nắng gắt. Nhà lều chúng tôi đến lấy xác mắm nằm sát bên bờ sông Mương Mán nhưng không có ngọn gió nào từ mặt sông thổi lên. Tôi lấy khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt rồi bước vào văn phòng làm việc. Một người đàn ông tóc đã có những sợi bạc, đeo kính lão, đang ngồi xem sổ sách. Chếch về phía bên phải bàn làm việc của ông, một cô thư ký tóc dài đang ngồi đánh máy chữ lóc cóc. Tôi mỉm cười thầm nghĩ, ông chủ này chịu chơi, tuyển nữ thư ký "nhí" ghê!
- Chào ông, tôi đại diện cho ông Quang ở Đà Lạt xuống nhận hàng.
Người đàn ông đứng dậy, vồn vã bắt tay tôi:
- Mời cậu ngồi. Tôi đã nghe điện thoại ông Quang dặn giao hàng chiều nay. Nhưng tôi gom chưa đủ số lượng. Vậy cậu hãy chịu khó đợi đến sáu giờ chiều, chúng ta sẽ cân hàng và chất lên xe luôn.
Rồi ông già quay qua cô thư ký "nhí", nói:
- Con lấy cho ba hai chai nước ngọt.
Cô thư ký rời bàn máy chữ đi vào nhà trong. Tôi ngạc nhiên hỏi ông chủ:
- Cô ấy là con gái của ông?
Ông chủ cười hề hề:
- Nó là con gái út của tôi. Nó đang học lớp 12 trường Phan Bội Châu. Những lúc rảnh, nó thường phụ giúp tôi đánh máy mớ giấy tờ. Cậu mới xuống Phan Thiết lần đầu?
- Dạ phải.
- Vậy trong khi chờ đợi nhận hàng. Tôi sẽ nói con gái tôi dẫn cậu đi coi phố xá hay đi tắm biển.
- Cám ơn ông. Tôi thích tắm biển hơn, vì ở Đà Lạt chỉ có hồ với thác, không bơi lội được.
Cô bé bưng ra hai ly nước đá và hai chai nước ngọt để xuống bàn. Ông chủ nói:
- Ba phải đi lo giấy tờ chuyên chở hàng kẻo chiều tối công sở họ nghỉ việc. Con thay ba dẫn ông khách đây đi tắm biển, ông ấy mới ở Đà Lạt xuống chưa biết biển Phan Thiết nằm ở đâu.
Cô bé quay qua nhìn tôi. Tôi cố gắng nở nụ cười thật tươi để em không từ chối. Và may mắn thay, cô bé đã gật đầu.
Uống một hớp nước ngọt, ông chủ nói:
- Cậu đi tắm biển vui vẻ nghe. Sáu giờ chiều mời cậu về đây ăn bữa cơm gia đình rồi chúng ta cùng cân hàng.
Ông cầm túi xách đứng dậy, dắt chiếc xe Honda đỏ ra khỏi nhà. Cô bé hỏi tôi:
- Ông có biết bơi không?
- Em hỏi làm chi?
- Để em biết nên dẫn ông đến chỗ bãi biển cạn hay sâu.
- Tôi sợ chết đuối lắm. Em dắt tôi đến chỗ nào nước sâu đến... trái tim là được.
Cô bé mỉm cười đi vào nhà trong sửa soạn. Tôi đi ra chỗ xe tải đậu, nói tài xế đợi đến sáu giờ chiều mới nhận hàng. Tôi với lấy túi xách có đựng quần tắm và khăn lông, tôi đã dự trù mang theo từ Đà Lạt xuống đây đợi có dịp là đi tắm biển bơi lội cho thỏa thích.
Một lát sau cô bé chạy chiếc xe cúp màu xanh rêu đến bên chiếc xe tải. Tôi vội nhảy lên ngồi ở yên sau. Cô bé tắt máy xe, bước xuống:
- Ngồi vậy kỳ chết. Ông ngồi trước lái xe đi.
- Nhưng tôi đâu có rành đường. Chạy lạc thì sao?
- Ông khỏi lo, em ngồi sau chỉ đường cho ông.
- Trời đất! Đâu có ai ngồi sau mà "chỉ đạo" được người ngồi trước.
- Có chứ. Mấy ông "sếp" thường ngồi ghế sau xe hơi chỉ đạo cho tài xế ngồi ghế trước.
Tôi nhăn mặt ngồi lên yên trước, đạp máy xe nổ. Cô bé ngồi xuống yên sau, vỗ nhẹ vào vai tôi:
- Ông cho xe quay lại.
Theo sự hướng dẫn của cô bé, tôi cho xe chạy lòng vòng qua một vài đường phố chính. Thành phố này chưa xây dựng nhiều nhà mới. Những ngôi nhà cũ kỹ được quét lớp vôi mới nhưng những mái ngói vẫn để nguyên màu nâu đen. Xe chạy qua một cây cầu mới xây ra ngoại ô. Hai bên đường, nhà cửa cũng còn mới được xây dựng nên mái ngói còn đỏ tươi. Qua một đoạn đường đầy ổ gà, xe bắt đầu leo dốc lên một đỉnh đồi. Vừa lên đến đỉnh đồi, cô bé vỗ vai tôi.
- Dừng lại.
Tôi thở phào hỏi:
- Đến rồi hả?
- Đến rồi.
Tôi lái xe vào một chỗ trống, tắt máy, đứng nhìn quanh. Trời đất! Biển xanh thẳm ở tuốc phía xa dưới chân đồi. Trên sườn đồi cây cỏ dại mọc tùm lum không thể chạy xe được. Nếu muốn tắm biển phải đẩy xe xuống dưới đó rồi lại đẩy xe lên, chắc tôi sẽ bị "xụm bà chè".Trong khi tôi đang phân vân có nên tắm biển hay không thì cô bé lấy sợi thun cột mái tóc đang bị gió thổi bay tung lên. Em hỏi:
- Ông có biết ông đang đứng ở đâu không?
Tôi nhìn xuống chân mình, quan sát kỹ lưỡng rồi trả lời:
- Tôi đang đứng trên vùng đất pha đá.
Cô bé lắc đầu:
- Ông đang đứng trên nền Lầu Ông Hoàng được người Pháp xây dựng từ năm 1920 và bị sụp đổ năm 1945. Địa danh này nổi tiếng với chuyện tình của thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm.
Nóng mũi vì thấy kiến thức của mình thua cô học trò lớp 12, tôi nói gắt:
- Tôi không cần biết Ông Hoàng là ai. Tôi cũng không cần biết thi sĩ Hàn Mặc Tử yêu ai. Tôi chỉ biết tôi đang yêu...
- Ông yêu ai?
- Yêu... xác mắm.
Cô bé lững thững bỏ đi vào một vùng cây leo bò xanh rì mặt đất và nổi bật lên những chùm hoa đỏ hồng. Sợ cô bé bị rắn cắn hay bò cạp chích, tôi vội đi theo em để xem nếu có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ về báo cáo với ba em thật chính xác: em bị rắn nào cắn hay bị loại bò cạp nào chích. Chứ nói vu vơ ba em sẽ coi thường tôi thiếu óc quan sát thực tế.
Cô bé dừng lại bứt một bó hoa đỏ hồng rồi quay lại hỏi tôi:
- Ông có biết hoa này tên gì không?
Tôi lắc đầu:
- Ở Đà Lạt tôi chỉ rành tên các loại rau củ, còn tên hoa thì chịu thua.
- Đây là hoa Tigôn, được người Pháp đem qua trồng ở Lầu Ông Hoàng. Lâu đài đã sụp đổ nhưng loài hoa vẫn còn. Thi sĩ T.T.Kh đã tả "Hoa dáng như tim vỡ" ông thấy đúng không?
- Không. Tôi thấy nó giống đầu con cá cơm bị vỡ khi làm mắm.
Cô bé thở dài:
- Đầu óc ông không biết mơ mộng.
- Em thông cảm cho tôi. Một người buôn bán xác mắm mà mơ mộng thì xác mắm sẽ "thơm lựng", bán không được thì tôi sẽ bị chết đói.
Cô bé trao bó hoa đỏ hồng cho tôi:
- Em tặng ông.
Tôi cầm lấy bó hoa thắc mắc hỏi:
- Em nói "Hoa dáng như tim vỡ". Vậy em tặng tôi loài hoa này làm chi? Tim tôi đâu đã... vỡ.
- Em tặng ông để cảnh giác ông đừng làm vỡ trái tim.
- Bộ tôi khùng rồi sao mà tự làm vỡ tim mình?
- Nhưng ông có thể làm vỡ tim người khác vì không biết mơ mộng.
Nghe cô bé nói nhức đầu quá, tôi đề nghị:
- Chúng ta hãy tìm chỗ gửi xe rồi đi bộ xuống dưới kia tắm biển.
- Chúng ta đã tắm biển rồi thôi.
Tôi trố mắt nhìn em:
- Chúng ta tắm biển hồi nào đâu?
Cô bé cười, vòng tay chỉ quanh mình:
- Ông không thấy chúng ta đang tắm trong biển hoa Tigôn sao? Tắm ở đây ông không sợ chết đuối vì hoa Tigôn chỉ mọc cao đến tim ông. Thôi trời sắp tối rồi, chúng ta hãy về kẻo ba em đợi cơm.
***
Cơm nước xong, chúng tôi bắt đầu cân những bao lát chứa xác mắm chất lên xe tải. Mãi đến tám giờ tối công việc mới hoàn tất. Xe nổ máy, tôi bắt tay chào ông chủ rồi leo lên xe ngồi bên tài xế. Tôi vừa đóng mạnh cửa xe lại thì cô bé chạy đến, trao qua khung cửa xe bó hoa Tigôn.
- Ông để quên cái này.
- Cám ơn em. Mong có dịp chúng ta sẽ lại cùng nhau đi tắm biển Tigôn.
Xe chạy. Tôi buồn buồn nhìn bó hoa đỏ hồng. Tôi tưởng em sẽ đổi ý tặng tôi một lít nước mắm nhĩ loại đặc biệt hay một ký khô mực loại xuất khẩu để làm quà kỷ niệm, nào ngờ vẫn chỉ là bó hoa Tigôn.
Xe chở xác mắm sẽ chạy suốt đêm để tảng sáng có thể giao hàng cho các chủ vườn légumes ở Đà Lạt. Thật kỳ lạ, khi xe chạy qua chỗ nào, những người đứng hai bên đường đều bịt mũi. Vậy mà tôi ngồi ngay trong xe lại ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu. Phải chăng hương hoa Tigôn đã át mùi xác mắm? Hay tại tôi đã biết... mơ mộng?
Đoàn Thạch Biền
|
|
|
Post by utlan on Aug 30, 2020 14:58:06 GMT -6
Xe chạy. Tôi buồn buồn nhìn bó hoa đỏ hồng. Tôi tưởng em sẽ đổi ý tặng tôi một lít nước mắm nhĩ loại đặc biệt hay một ký khô mực loại xuất khẩu để làm quà kỷ niệm, nào ngờ vẫn chỉ là bó hoa Tigôn. Xe chở xác mắm sẽ chạy suốt đêm để tảng sáng có thể giao hàng cho các chủ vườn légumes ở Đà Lạt. Thật kỳ lạ, khi xe chạy qua chỗ nào, những người đứng hai bên đường đều bịt mũi. Vậy mà tôi ngồi ngay trong xe lại ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu. Phải chăng hương hoa Tigôn đã át mùi xác mắm? Hay tại tôi đã biết... mơ mộng? Đoàn Thạch Biền Út đọc đoạn này phải phì cười.
|
|
|
Post by long on Sept 2, 2020 12:25:51 GMT -6
Đà Lạt Trong Nỗi Nhớ
Nơi Thanh ở đang là mùa Xuân. Mùa Xuân ở đây không có những đàn chim én từ đâu bay về, chao lượn ngọan mục trên bầu trời báo hiệu Xuân sang như ở Đàlạt quê hương nàng, nhưng ở đây trời cũng cao, mây cũng xanh như vùng trời yêu dấu đó. Hoa xuân khoe sắc khắp nơi, hoa hồng, hoa cúc nở muôn nhà, mai đào nở hồng công viên, tràn khắp phố. Từ nhà đến chỗ làm, Thanh còn được đi qua thung lũng phủ ngập hoa vàng, lọai hoa dại thật dễ thương điểm trang cho Cali vào những ngày Xuân. Nhìn màu vàng của hoa, Thanh lại nhớ ơi là nhớ đến những thung lũng quỳ vàng của Đàlạt dấu yêu vào những ngày Đông đến, lòai hoa thật mộc mạc đơn sơ, thật dễ yêu mang tên cô giáo dạy vẽ của Thanh hồi trung học, cô giáo người Huế thật hiền, thật dễ thương mà Thanh rất yêu mến. Giờ cô cũng đang ở đây chỉ cách xa Thanh khỏang một giờ lái xe, trải qua bao nhiêu năm “thất lạc”, cô đã tìm ra Thanh. Thật là cảm động khi cô trò hội ngộ. Cảm động nhất là cô đã tỉ mỉ nắn từng cái bánh bột lọc bé tí, cán từng sợi bánh canh mỏng để đãi Thanh. Cô cũng không quên đổ những chén bánh bèo bé tí nị, làm chén nước mắm nguyên chất có dằm vài trái ớt đỏ cay xé, để khi ăn phải hít hà, dàn dụa nước mắt…mà vẫn không quên khen – “Chi mà ngon rứa!!” –
Mỗi lần được ăn món Huế là Thanh lại thầm phục cái khéo léo, cái tỉ mỉ của người dân đất Thần Kinh. Đàlạt là phần đất quy tụ hầu như người tòan miền của đất nước, từ miền Bắc xa xôi, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáy…cho đến miền Trung cát trắng, lan dài đến Đồng Tháp, Cà Mau…hình như mọi người đều muốn tìm đến vùng cao nguyên có khí hậu trong lành, có tình người ấm áp này để định cư, lập nghiệp. Chính vì có nhiều dân tứ xứ nên giọng nói dân Đàlạt có âm hưởng của cả ba miền: cái trong trẻo lên bổng xuống trầm của người Bắc, cái đầm ấm, mặn mà của biển, của cát ở người miền Trung, và cái ngọt ngào của cây trái, sông lạch ở miền Nam. Thức ăn, hàng quán ở Đàlạt cũng đa dạng, nhớ tô phở bốc khói ở hiệu phở Bằng ngay phố Hàm Nghi, phở Tàu Bay ở Ga, nhớ cà phê Tùng thật nổi tiếng, cả cà phê ngon lẫn cô con gái bán cà phê xinh đẹp, nhớ quán bánh xèo ngay dốc Minh Mạng mà những hôm trời lạnh, tụi Thanh thường tìm đến, ngồi chờ khá lâu mới có một cái bánh để ăn, nên cả bọn đặt tên là bánh chờ, bánh đợi. Rồi mì quảng ở Hòang Diệu, ở Ngọc Hiệp, ông chủ quán Thanh Bình ở Ngọc Hiệp thật lạnh lùng, chưa hề thấy ông mỉm cười nhưng nấu mì thì thật tuyệt. Đường Hàm Nghi có bánh căng, bánh mì của chị Duyên, trong chợ lồng có cháo lòng bà Tụng, bún riêu của bà Thảo, bánh ướt tôm chấy, bánh ram, bánh bèo của chị Gái. Rồi quán mì ở Thủy Tiên, những quán chè ở Minh Mạng như Vọng Nguyệt Lầu, Dạ Thảo. Đó là chưa kể hàng bao nhiêu gánh dạo không tên, chuyên chở nào là bánh bao, tàu hủ, bò bía…món nào cũng mang những hương vị riêng của nó. Ôi Đàlạt của Thanh, có thức ăn ngon, có thiên nhiên ưu đãi, có con người hiền hòa, hiếu khách. Sao Thanh nhớ quá!
Có hôm thật buồn, thật nhớ, Thanh lái xe một mình đến công viên, tìm một gốc cây dựa lưng nhìn trời, nhìn lá hoa, cây cỏ mà mộng về khung trời xưa của mình. Mới đó mà Thanh đã xa nhà mười bốn năm, thời gian đủ để cho một hạt thông từ lúc bắt đầu nảy mầm trở thành thông thiếu nữ, cành lá xum xê. Thanh ray rức nhớ những cụm thông già vươn lên ở ngôi trường có vòm tháp cao, đẹp vô cùng với lối kiến trúc của Pháp. Thanh nhớ những cây thông già cỗi nhưng thật đẹp của đồi cù sau ngôi trường cũ, thèm nhìn ngắm màu xanh của lá thông, nghe tiếng thông vi vu trong gió, thèm được đạp chân trần trên thảm lá thông của con đường vòng suối Vàng, suối Bạc năm nào, thèm hít lại mùi ngai ngái nồng của đám lá thông ẩm ướt…Ờ, còn nhớ tiếng suối róc rách, con suối nhỏ sau vườn nhà Qùy Hương mà những lần đến là hai đứa lại ra ngồi bên bờ đá cho chân xuống nước, ráng khuấy động những hòn cuội trắng dưới chân mình rồi cười khanh khách, nụ cười của Quỳ Hương lúc nào cũng hồn nhiên thanh thóat, nụ cười trẻ mãi không già! Thanh lại mơ màng cho dòng suy tưởng về khung trời mờ sương lạnh của Đàlạt, những sáng sương mù phủ kín mặt hồ Xuân Hương, những hạt sương long lanh, đọng trên cỏ cây hoa lá rồi chờ nắng lên làm tan đi.
Ngày xưa có một anh Võ bị cũng thật yêu sương sớm như Thanh. Anh là dân Sàigòn nhưng thơ anh là cả một trời Đàlạt, anh dệt thật nhiều bao vần thơ đẹp rồi nắn nót viết tay, đóng tập tặng nàng:
"Nắng lên điếm cỏ thềm sương Trên năm ngón nhỏ, em buồn không em?"
Buổi tối, gác trên đồi Bắc, với anh là những đêm tuyệt vời. Anh bảo anh mê những buổi tối đứng gác, nhìn những chòm sao xa tít tắp, anh thấy mình bé nhỏ vô cùng trước thiên nhiên, thật hạnh phúc thấy mình hiện hữu và sung sướng hơn là chờ đón bình minh trên ngọn đồi này, anh đợi ngày mới bắt đầu, đợi nắng mơn man đánh thức. Những buổi sáng tuyệt vời trên đỉnh đồi này, anh bảo anh nghĩ đến Thanh thật nhiều, có lẽ giờ này Thanh đang khoanh tròn như chú mèo ngái ngủ: "Giờ này em đã thức giấc chưa Hãy khoan Khoan thức vội Anh thích em vẫn cuộn tròn trong chăn ấm Lười biếng Nhưng thật đáng yêu Em là chú mèo nhỏ của Anh Chú mèo mê ngủ nướng!!"
Người con trai Sàigòn, tên Khanh, đã bỏ phố phường, bỏ bạn bè tìm lên phố núi học đạo, rèn luyện kiếm cung, chờ ngày hạ sơn, vẫy vùng ngang dọc. Và ở thành phố này, chàng đã gặp Thanh.
"Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam Ví dầu tình có dở dang Thì cho thiếp đáp đò ngang thiếp về."
Người con trai trên dặm đường rong ruổi ấy đã gặp và yêu người con gái:
"Đến đây lạ xứ “quen” người Trăm bề nhũn nhặn đừng cười tôi “quê” Ví dù tình bén duyên thề Thì xin kết nghĩa, đền nghì trúc mai."
Văn chương bình dân giản dị và dễ thương ghê Thanh nhỉ? Hiểu không, đó là những lời Khanh muốn tỏ bày cùng Thanh đó. Thanh ơi! Qủa tim mi cũng một phần xao động vì lời tỏ tình dễ thương ấy quá chứ, không hiểu tại sao Thanh vẫn im lặng làm ngơ, nhưng Đàlạt bé tí ấy mà, tuần lễ sau đi dạo phố lại gặp anh, Thanh liếc nhanh, cười mỉm rồi bước vội, thơ anh lại đi:
"Gặp nhau cười thóang rồi quay đi Mừng tủi chan chan mà hững hờ!"
Anh còn vẽ bức tranh lớn với hình ảnh người con gái với cặp mắt liếc nghiêng, lại còn chêm dưới bức họa hai chữ “giả lơ” trong ngoặc kép.
"Sinh nhật Thanh đến, anh lại nhắn nhủ: Anh rất thèm ăn sinh nhật của em Nhưng sợ những đắng cay tự trái tim không biết nói Thì thầm một mình: buồn tênh T. ơi!..."
Nhớ như in ngày gặp anh vào một buổi đẹp trời, Nga, cô trưởng lớp, sau khi ở văn phòng về báo tin cho biết, chiều thứ bảy này, tụi mình sẽ được vào Võ bị tham dự lễ khánh thành vườn hoa của sinh viên sĩ quan trong đó. Cả lớp nhao nhao. Chao ơi! Lần đầu tiên được đi thăm một quân trường nổi tiếng nhất nước và có thể nói nhất Đông Nam Á, ai mà lại không vui chứ. Cô Tâm, cô Tổng giám thị của trường còn đến dặn dò, giọng cô gần gũi thân thương, chả giống những lần quở phạt các lớp: “Nhớ nhé! Các em đại diện cho cả trường đấy!” Cô còn tâm lý: “Hãy tô lên đôi môi một tí son vui tươi và một chút phấn hồng lên má, để các nữ sinh của cô đã xinh lại càng xinh hơn nữa.”
Rồi chiều thứ bảy ấy, có một chàng cao lêu khêu của đại đội H, cứ loanh quanh bên Thanh, giới thiệu những vườn hoa từ đại đội này sang đại đội khác. Vườn nào cũng xinh xắn, dễ thương. Len lỏi trong hàng thông còn những chiếc ghế làm bằng gỗ hoặc bện bằng mây thật công phu. Các cô nữ sinh dành nhau ngồi thử. Tiếng cười nói rộn ràng, vui nhộn…ai nấy đều thật thích thú trong lần viếng thăm này. Khi đến vườn hoa của đại đội Khanh, đặc biệt ở đây có một chiếc hồ được đào thành hình bán nguyệt và được thả hoa súng màu hồng thật dễ thương, Khanh đã cười chọc nàng:
"Đến đây, xin ở lại đây Có hồ bán nguyệt anh xây tặng nàng."
Thanh cũng không vừa, đáp lại:
"Đến đây, đâu dễ ở đây vì…hồ bán nguyệt đâu phải tự tay anh đào."
Khanh chắp tay lại xá xá: “Thôi, tôi chịu cô rồi.”
Sau buổi ấy, hai đứa thư qua từ lại. Thỉnh thỏang anh lại ra nhà dẫn mấy em Thanh đi cine hoặc chỉ ngồi ở nhà đánh đàn, ca hát. Anh đánh đàn thật hay, giọng ca thật ấm, thật ngọt ngào, dáng dấp thật nghệ sĩ. Bạn bè bảo Thanh: “Sao mày không chọn K làm người hùng đi nhỏ.” Thanh chỉ mỉm cười không trả lời.
Rồi bốn năm quân trường cũng qua đi. Ngày lễ ra trường của Khanh Thanh cũng không dự. Người lại trao thơ nhắn gởi:
"Ta như sương còn lan trên hồn đất Vai ba lô tắm nắng mặt trời hồng Đường ta đi dồn dập ngàn sóng bạc Rồi từ đây người có nhớ ta không?"
Khanh đi, chọn binh chủng Hải quân, tàu anh lênh đênh ở tận Cà Mau, Năm Căn. Giang đòan anh đối diện thật nhiều với những hiểm nguy rình rập, những trận đánh xáp lá cà, những thủy lôi cận kề. Đi xa, anh vẫn không quên viết thư về. Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, cho đến tháng tư bảy lăm thì tin anh mất hút. Đến lúc này Thanh mới thấy là mình thật nhớ anh.
Giờ này thì anh ở nơi nào? Một góc rừng, một con suối hay trong lò cải tạo nào đó tận Cà Mau hay đất Bắc xa xôi? Hoặc đã nằm sâu trong đáy đại dương mênh mông nào đó? Dù không biết anh đang ở nơi đâu nhưng mãi mãi trong ngăn tim bé nhỏ này, anh vẫn hiện hữu, đằm thắm, dịu dàng, tràn đầy thương yêu trong Thanh.
Rồi Thanh bỏ đất nước ra đi, bỏ lại sau lưng thật nhiều kỷ niệm, bỏ lại Đàlạt cả một trời thương yêu có ngôi nhà đầy ắp tiếng cười, có trường cũ với cô thầy, bạn bè dấu yêu, có anh và một thuở mới lớn. Thanh như chú chim nhỏ lẻ loi, cô độc nơi này…già nua theo tháng ngày, không người yêu mến…Quê hương thì vẫn nghìn trùng xa cách. Thanh lại càng thấm thía hơn với tâm trạng của người xưa:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thi Yên ba giang thượng sử nhân sầu!" (Quê hương khuất bóng hòang hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!!)
Forget Me Not
(BTX)
|
|
|
Post by long on Sept 3, 2020 16:13:23 GMT -6
NGƯỜI ĐI TRÊN ĐỐNG TRO TÀN
NH, ngày 14 tháng 1 2014
Anh K thương mến,
Những năm trước khi nghe anh nói năm nay anh cũng chưa về VN được, em rất buồn. Hơn 20 năm rồi còn gì. Nhưng năm nay thì em lại nghĩ khác. Anh không về hóa ra lại hay. Hãy để VN biến thành tro bụi trong ký ức. Nhưng anh không về mà cứ muốn em kể chuyện VN cho anh nghe. Em sẽ kể nhưng anh đừng khóc đấy nhé. Em sẽ bắt đầu từ đâu nhỉ?
À. Huyện lỵ của mình bây giờ được gọi là thị xã. Nếu về anh sẽ không nhận ra đâu là đâu. Ngôi trường bé nhỏ dưới mấy gốc bàng nơi anh và em học lớp vỡ lòng, đã bị đập bỏ để xây một cung thiếu nhi nguy nga. Hai hàng tre bên sông Dinh đã được thay bằng bờ kè bằng đá. Đường sá cũng được mở rộng thay cho những con đường làng nhỏ mà thuở bé anh hay đạp xe chở em về thăm quê nội hay rong chơi đây đó. Xem ra thì đướng sá cầu cống, dinh thự, trường học có khang trang hơn xưa nhưng đó là hàng mã. Tất cả đều chỉ đẹp đẽ trong ngày khánh thành, còn sau đó nó hư hỏng nhanh chóng là điều bình thường ở xứ sở này. Trên những con đường ở đất nước gọi là thanh bình này mỗi năm có hàng chục ngàn người chết vì tai nạn xe cộ. Người chết vì tai nạn giao thông mấy mươi năm nay còn hơn số người chết trong cuộc chiến vừa qua. Không có ở nước nào mà người dân phải tự di chuyển bằng xe gắn máy. Không có ở đâu mà xe gắn máy chạy chung với xe tải, xe khách, xe chở container. Người mình chết nhiều đã đành. Cứ mỗi lần đọc báo có tin một chuyên viên nước ngoài đến VN làm việc bị xe tông chết thì em vừa xấu hổ vừa thương cho họ. Đáng lẻ họ không nên đến đây, một đất nước mà mạng người chỉ là cỏ rác.
Trong thư anh thường nói phong cảnh ở VN là đẹp nhất. Núi đẹp, rừng đẹp, những ngôi nhà nho nhỏ giửa những thửa ruộng xinh tươi.
“Chiều ơi, lúc chiều về là lúc yên vui Trâu bò về dục mõ xa xôi …ơi chiều” (*)
Anh ơi, làng quê thì vẫn còn màu xanh như cũ nhưng nó không còn là chốn yên lành. Rượu, phim bạo lực, phim sex, thất nghiệp đã làm dậy lên men say cuồng sát và cảnh chém giết nhau anh cũng đã biết rồi trên các báo online.
Anh cũng sẽ không còn tìm ra những nàng thôn nữ:
“gánh gánh, gánh, gánh thóc về gánh về gánh về” (*) Không còn nữa nụ cười e ấp dưới vành nón che nghiêng. Tìm đâu thấy chiếc áo bà ba quen thuộc của bà, của mẹ.
Hàng Trung Quốc bây giờ vừa rẻ vừa model đã biến cả các phụ nữ nông thôn thành những con rối hồn nhiên háo hức với “quần bò” hở rún, áo hai dây hoặc không có dây nào.
Trước đây người dân được dạy cho biết lao động là vinh quang và mọi người mọi nhà phải tăng gia sản xuất. Lúc đó cây khoai mì đã trở nên một biểu tượng được tôn sùng của đất nước. Nhưng sau đó họ sực tỉnh ra rằng những cây gổ trăm năm, ngàn năm bạt ngàn trên rừng Trường Sơn mới là triệu triệu dollars. Và thế là một cuộc thảm sát long trời lỡ đất chưa từng có đã biến cho đất nước mình thảm hại như một con đại bàng bị vặt trụi lông.
Anh sẽ khóc khi nhìn thấy Dalat mất gần hết rừng thông, anh sẽ thất vọng khi Dalat không còn cái lạnh đáng yêu của một châu Âu giửa lòng một đất nước chỉ có hai mùa mưa nắng. Và anh sẽ phì cười khi thấy đã có tiệm bán quạt máy ở Dalat.
Người Việt dẩu sao cũng dể thích nghi với mọi hoàn cảnh. Em thương nhất, đau lòng nhất khi nhìn vào đôi mắt buồn vời vợi của những người thiểu số khi họ bị bứt khỏi núi rừng. Núi rừng là quê hương của họ, là ngôi nhà kỳ vỹ của họ. Thật nhẫn tâm khi để chiếm núi rừng, người ta lùa họ ra sống ở những ngôi nhà gạch, mái tôn xây vội. Nhìn họ uể oải nhảy múa, đánh cồng, đánh chiêng phục vụ cho ngành du lịch thấy mà đắng lòng.
Anh đã từng nhìn thấy voi khóc chưa? Mỗi lần nhìn vào mắt của những con voi chở khách du lịch em chắc chắn rằng chúng đang khóc. Những con voi cuối cùng ở buôn Đôn ấy đã lần lượt ngã gục sau một đời nô lệ, xiềng xích, đói khát.
Dalat không còn hoang sơ, bí ẩn, thơ mộng như thuở nào.
Rồi đây cáp treo sẽ đưa người lên Phan Xi Pang, lên langbian. Những rùa, nhím, trút, chồn hương, nai hoẳng sẽ bị tận diệt cho những cái bao tử phàm phu khốn nạn.
Người ta cũng phát hiện ra rằng ngoài rừng, biển cũng là triệu triệu dollars. Không biết vua Duy Tân có lỗi gì với dân tộc mà sau năm 1975 con đường tuyệt đẹp mang tên ông trải dọc biển Nha Trang đã đổi thành đường Trần Phú. Và cũng từ đó biển Nha Trang dân dần bị biến dạng. Song song với cuộc tàn sát rừng, biển cũng bị xâm lấn nặng nề. Nếu anh về thăm biển Nha Trang anh sẽ thấy biển không còn gây cho anh cảm giác mênh mông, anh sẽ không còn cái thú được thấy mình như “con ốc bơ vơ nằm trên cát” (*). Biển Nha Trang bây giờ bị bao vây bởi một rừng khách sạn khổng lồ ngạo nghễ nhìn ra biển. Nằm dưới chân những gã khổng lồ khách sạn, biển Nha Trang đã biến thành một cái ao làng với rất nhiều bao ny lông nhớt nhát trôi vật vờ. Nha Trang bây giờ không còn thênh thang gió biển, .
Còn đâu nữa:
“Phố chiều bao tà áo trắng, Lượn quanh hè phố nắng Những cô nàng xinh đang tròn trăng” (Hoàng Thi Thơ)
Nhưng điều đau buồn nhất là một thế hệ con cháu chúng ta đã lớn lên như những con gà công nghiệp trong một chiếc lồng chật chội.
Làm sao trách chúng được khi chúng lớn lên trong một không gian mù mờ về lịch sử.. Chúng được dạy dổ rằng chúng đang sống rất hạnh phúc trong một đất nước đã được giải phòng và chúng phải biết ơn Bác, biết ơn Đảng.
Mà hạnh phúc thật đấy. Một diễn viên nổi tiếng của Hollywood tổ chức đám cưới chỉ mời không đến vài chục khách trong khi bà Hai bán phở, ông Chín nhân viên thuế vụ, chị Năm y tá làm đám cưới cho con mời bốn, năm trăm khách. Trong đám cưới, thật ngỡ ngàng khi có ông cựu binh sĩ VNCH hào hứng lên sân khấu hát bài “Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng” !!!
Nếu anh về đi thăm bà con, anh sẽ chạnh lòng khi nghe thím Hai khoe con thím đi làm ở Bưu Điện được cử đi học lớp cảm tình đảng. Điều đó có nghĩa nó có hy vọng vào đảng và lên chức. Buổi tối về nhà anh sẽ nghe mấy đứa cháu anh ê a học “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào…”
Không thể trách được. Dù là gà công nghiệp, gà cũng thèm mổ gạo, cũng thèm sống.
Làm sao trách được người dân Việt khi trong sân bóng đá họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là lá cờ đỏ sao vàng để cuồng nhiệt phất lên mừng đội nhà chiến thắng.
Sau năm 1955 chúng ta có một cuốn phim với một tên gọi rất hay “Chúng Tôi Muốn Sống”, Sau 1975 em rất thích phim “Phải Sống” của Trương Nghệ Mưu.
Phải sống thôi..
Người dân quê mình không còn hơi sức đâu mà buồn mà lo lắng, suy nghĩ. Thời gian để sống dường như càng ngày càng vội vã mà gông cùm thì siết quá chặt.
Phải chi có anh vào những ngày cuối năm này em sẽ dẫn anh đi thăm một nơi mà em rất thích vì nó yên tỉnh, đẹp và buồn.
Đó là nghĩa trang nơi có mộ ba, má, bộ cậu Sáu, dì Bốn, mộ ông Ba Cà, bà Tám Hương, ông Mười Cảnh… Những người hàng xóm thân thiết của chúng ta đều có mặt ở đây. Đến đây anh sẽ nhớ lại những ngày thơ ấu tươi vui của chúng mình những đứa trẻ nghèo, thiếu thốn nhưng được tự do bay nhảy trong khu rừng nguyên sinh bát ngát tuyệt đẹp của một đất nước tên gọi Việt Nam.
Em thích nhất là được ngắm nhìn những rặng núi xanh thẳm buồn buồn, được nghe tiếng những hàng cây rủ rỉ trong gió chiều tịch mịch.
“Me có hay chăng con về Chiều nay thời gian đứng yên để nghe”.
Nói vậy nhưng em vẫn tin rằng anh sẽ về. Anh nhé.
Em gái
HUYỀN CHIÊU
|
|
|
Post by long on Sept 4, 2020 11:24:51 GMT -6
BAY ĐI THẦM LẶNG
Mấy hôm rồi, một mình tôi ở nhà, một mình tôi hưởng cái lành lạnh buồn buồn, ôm cây đàn tôi tập lại bài hát mới "Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau, có những vực bờ chôn theo tình đầu. Có tiếng thở dài dưới gió thu đông. Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng." (1) Trời buồn, một mình buồn, bài hát buồn, tôi chợt thấy lênh đênh lãng đãng, tôi trôi dần về kỷ niệm.
Cuộc đời tôi, mỗi bước đi qua, mỗi kỷ niệm. Vui buồn hay thương đau cũng như nhau, cũng là kỷ niệm cũng làm lòng mình ấm lại trong những ngày chớm thu. Tôi đang bước về khoảng trời yêu thương nhất của một thời, tình yêu còn mới như trang giấy, mới viết một chữ yêu. Đà Lạt của năm 1962. Bắt đầu cho tôi những ngày sống thần tiên. Tôi yêu cái thành phố - đi dăm phút lại gặp nhau, trên những con dốc, những mái nhà ngói nhỏ thấp thoáng cao thấp trên những sườn đồi. Con gái Đà Lạt má đỏ, môi hồng, da trắng tóc dài giản dị mà duyên dáng nhẹ nhàng như con gái Huế. Những chiều nắng vàng, tôi trốn bạn bè lên đồi Cù, nằm một mình dưới gốc thông, lắng nghe gió thổi mơn man trên tóc trên da, có lúc đi bộ vòng vòng trước vườm ươm cây cạnh Hồ Xuân Hương, có lúc một mình ngồi uống ly cà phê sữa nóng tại nhà thủy tạ đợi chiều xuống. Rồi lại một mình đón xe đò về nhà. Đi xe đò, xe lam ở Đà Lạt cũng là một cái thú. Dù đi một mình hay với bạn bè.
Tôi yêu Đà Lạt như yêu Huế, yêu bờ sông Thạch Hàn. Rời Sài Gòn lên Đà Lạt, lúc đó tôi 17 tuổi. Quyết định một mình và ra đi một mình. Tôi bắt đầu hát ở Night Club ở Đà Lạt ngày 15-11-1962. Cái nhà hàng nằm ngay bên cạnh đường đi trại Hầm. Cũng từ ngày đó tôi tự coi tôi như người Đà Lạt, người của Đà Lạt. Không có một nơi nào của Đà Lạt mà tôi không đặt chân đến. Không có tiệm ăn nào, món ăn nào ở Đà Lạt mà tôi không nếm qua. Từ Mekong, Sanghai, đến tiệm Mì Quãng Ngọc Diệp, bà bún riêu chợ Hoà Bình, bao nhiêu năm sau dù đã rời xa Đà Lạt tôi vẫn ghé thăm mỗi khi trở lại. Phở Ngọc Lan, cơm thịt đông, dưa chua Bắc Hương, café Tùng... Gần như ngày nào tôi cũng có mặt. Cái thành phố lên cao xuống thấp, nhỏ như bàn tay, mọi người đều quen biết nhau. Bây giờ người đã chết, người còn sống với bao nhiêu trách nhiệm bổn phận của gia đình. Nhắc nhớ là một chuyện không nên. Dù lòng tôi, tận trong thâm tâm tôi, tôi không hề quên. Có điều tự nhủ. Số phận. Mỗi người một phần số. Dòng đời trôi quanh co có khi xui người lỗi hẹn hò. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm một thời, còn mãi những mộng mơ....
Giờ tuổi đã lớn, con cái đã lớn, có những buổi chiều mưa buồn một mình như chiều hôm nay, tôi chợt thấy lại sống trong những kỷ niệm tôi đã đào sâu chôn cất bao nhiêu năm... Tôi đã tự nhủ với lòng rằng tất cả chỉ là định mệnh, trời đã cho ta thế, ta nhận thế. Tôi đã hài lòng, an phận với hạnh phúc gia đình đơn sơ như hôm nay.
Lẽ ra tôi không nên viết những điều này lên báo. Nhưng khổ nỗi, tôi chỉ có thể viết được những điều tôi nghĩ, không thể khác hơn.... Có những lúc cơn nhớ nhà nổi lên bất tử. Đang ngồi tự nhiên la lớn.... Trời ơi nhớ nhà quá, nhớ Đà Lạt quá, nhớ Huế quá....
Tôi ở Đà Lạt 5 năm, ai kêu ai rủ về Sài Gòn cũng lắc. Đà Lạt với tôi là nhất. Đà Lạt như chỗ ẩn náu thần tiên, thân thiết yêu thương tôi. Nhưng sau cùng tôi phải cắn răng bỏ Đà Lạt ra đi, để bước vào một định mệnh khác. Một hạnh phúc. Một bất hạnh khác. Sau đó nhiều lần tôi trở về thăm Đà Lạt như đứa con xa về nhà. Không phải xa lạ như một người khách bất chợt trên đường ghé qua. Lần sau cùng tôi và một người của Đà Lạt về thăm nhà nhưng cây cầu La Ngà đã gãy, chúng tôi phải trở về. Từ đó tôi không bao giờ thấy lại người đó của Đà Lạt và cũng không bao giờ hy vọng về nhà nữa. Những đêm ngồi một mình đến 4 giờ sáng, nhiều lúc quạnh quẽ cô đơn, tôi nhớ Đà Lạt biết đến chừng nào. Nhất là café Tùng, bến xe đò Minh Trung, và con đường hun hút thông reo qua hồ Than Thở đến trường Võ Bị. Từ ở đó, cuộc đời tôi qua nhiều khúc quanh, từ ở đó nơi đêm đêm tôi hát Đời ca hát ngày tháng cho người mua vui. Nơi tôi khóc ngày mới đến, tôi đã khóc ngày ra đi, tôi đã tiếc nuối không được trở lại để sống cho niềm mơ ước của mình một lần.
Có còn bao giờ không em
Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng, có ai nghe thấy tiếng thổn thức đó chăng? Hay chỉ mình tôi, tôi nghe tiếng tôi thở dài trong đêm với Đà Lạt, với niềm mơ ước của tôi./.
KHÁNH LY
|
|
|
Post by long on Sept 5, 2020 13:41:35 GMT -6
DaLat
ngày tôi trở lại 2016
Thế là (UD) lại sắp xếp cho tôi một ngày trở về Việt Nam, vui ít buồn nhiều. Vui vì được gặp lại thân bằng quyến thuộc, buồn vì quê hương vẫn nghèo nàn lạc hậu, và rất nhiều người muốn rời bỏ đất nước ra đi tìm nguồn sống. Hai ngày trên Đà Lạt, có lẽ là thời gian tôi buồn nhất. “Trở về nơi xưa thêm bao tình thương”, câu hát ấy trong một bài nhạc nhạc xưa không đúng với tâm trạng tôi khi trở về chốn cũ. Đà Lạt trước năm 1975 như một thành phố Âu Châu xinh đẹp nằm giữa một khu rừng nhiệt đới. Đà lạt đẹp. Đà Lạt thơ mộng.Đà Lạt những buổi sáng sương mù đưa nhau xuống phố mà trong lòng ngây ngất cơn say. Đà Lạt những tối mùa đông, tay em trốn lạnh trong túi áo anh. Chúng ta bước chầm chậm bên những vườn hoa thơm ngát, giữa tiếng chuông ngân nga từ lưng đồi đổ xuống. Nói tới Đà Lạt không thể không nhắc tới dã quỳ. Dã quỳ còn vài tên khác nữa là hoa hướng dương, sơn cúc. Vào mùa dã quỳ trổ rộ, những con đường dẫn tới Đà Lạt, những con đường trong lòng Đà Lạt, những triền núi…vàng rực một màu dã quỳ. Trở lại những lối đi quanh đèo lên dốc về Nhìn lại những mái rêu xanh Nghiêng vai lạnh kề Thở lại mùi hương Bay đầy thinh không Của tình dồn kiếp Đã hóa thân chia ra Một loài hướng dương Vâng, hoa Đà Lạt có phải là hồn của những mối tình đã hóa thân chăng? Đà Lạt trong trí nhớ của nhiều người xa xứ là một thành phố thơ mộng, vì cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, một chút lạnh lẽo, một chút sương mù. Rừng Ái Ân, hồ Than Thở, cái cách người ta đặt tên cho rừng, cho hồ ấy, không thơ mộng sao? Cái lạnh ở Đà Lạt không buốt giá mà là một cái lạnh mát. Cái nhỏbé của Đà Lạt, làm cho Đà Lạt có một vẻ gì đó, tựa như nằm lọt trong chiếc nôi của núi rừng bao quanh. Và cái lạnh dường như muốn ru người ta lại gần nhau hơn. Có lẽ vì thế, trước 1975 người ta cho rằng Đà Lạt là nơi lý tưởng để hưởng tuần trăng mật vậy. Giờ đây, Đà Lạt hoàn toàn thay đổi, từ khí khậu, khung cảnh đến con người. Không còn thơ mộng, thanh lịch . Đà Lạt, nơi đã từng được ví như một thành phố Âu châu xinh đẹp lịch sự hoàn toàn biến mất. Bây giờ cây cối bị đốn chặt , lá như bớt màu xanh, nhà cửa mọc lên như nấm. Người đông, áo quần lam lũ, ngoài đường xe cộ chật cứng. Cũng vì thế mà Đà Lạt không còn lạnh nữa. Vì khí hậu không lạnh nên Đà Lạt không còn nét đẹp xưa. Tìm đâu thấy một bóng “khăn san bay lả lơi trên vai ai” của các thiếu nữxinh tươi má hồng đào đỏ au, đi bên nhau nhẹ cười rúc rích. Những ngày chủ nhật, những nàng thiếu nữ học sinh trường Bùi Thị Xuân , e lệ sánh vai cùng chàng sinh viên Võ Bị, hay Chiến Tranh Chính Trị mặc quân phục trang trọng, buổi sáng chủ nhật dạo phố,dạo quanh hồ Xuân Hương … Nước mặt hồ vẫn phẳng lặng, êm đềm. Vẫn có những chiếc Pedalo đậu bến, nhưng không thấy bóng một chiếc nào chạy lòng vòng trên sóng nước. Thiếu tiếng cười vang vọng, thiếu giọng nói của du khách reo vui. Không còn áo manto, áo dạ áo len mầu quanh bờ hồ. Chỉ thấy những chiếc áo lạnh thô sơ khoác trên thân hình khô cằn, gương mặt xạm đen. Chỉ thấy cỏ khô, lá úa rụngđầy. Và nước mặt hồ vẫn lăn tăn gợn sóng như lặng lẽ đợi những chiếc Pedalo khơi dậy âm thanh lao xao, khua động một thuở nào…
Chung quanh hồ, chi chít là hàng quán, ghế ngồi, bia rượu say sưa, người dạo chơi thì quần áo mặc lôi thôi. Ôi, buồn làm sao khi nhìn thấy một Đà Lạt thanh lịch ngày nào, nay đã biến thành một Đà Lạt lam lũ, nghèo nàn, lạc hậu! Một Đà Lạt trong trí tưởng mà giờ đây là một Đà Lạt : không gian, khí hậu, con người thay đổi hoàn toàn. Trong lòng tôi trào dâng một niềm đau, một nỗi chua xót ngậm ngùi. Tôi và (Uyển Diễm) ở trong căn phòng cũ của ngôi nhà xưa đường Trần Hưng Đạo, nay là một trong một chuỗi khách sạn mang tên Dalat CaDaSa Resort của nhà nước. Căn phòng xưa của vợ chồng tôi vốn đã rộng nay càng mênh mộng, lạnh lẽo vô cùng . Một đêm thao thức. Nơi đây như không có một sinh khí. Trống vắng, lạnh lùng. Thường chỉ có tiếp đón phái đoàn của “Nhà nước” đến tham quan du lịch, không có du khách vì giá phòng quá đắt. Toàn bộ ngôi nhà như không thay đổi, hình như họ muốn giữ y nguyên. Ngay cảnhững vết sơn, vết nứt trên tường, dưới sàn gỗ. Tôi còn nhớ sàn nơi phòng ngủ vào phòng tắm, hơi cao một chút, nếu không để ý có thể bước hụt. Cho nên ngày ấy nhà tôi đã để một tấm thảm nhỏ dầy cho bằng phẳng. Nay tấm thảm đã mất. Hai chiếc ghế gỗ có chỗ dựa lưng màu nâu xậm kê ngoài balcon vẫn còn, nhưng cũng đã phai màu cùng năm tháng… Ở đó , tôi không thể nào quên những cơn mưa phùn làm ướt những con dốc nhỏ, Đôi khi người ta phải nắm tay nhau đi khỏi ngã. Ở đó có những cơn gió thơm nức mùi nhựa thông. Ở đó, có lúc người ta tưởng chừng như mình đang đi trong hơi thở của núi rừng. Và cũng ở đó, có một thời chiến tranh đã qua đi, và tôi có những ngày thật đen tối: “Mặt trời không mọc ở phía Đông, Không mọc ở phía Tây” Đó là ngày: “Người yêu dấu của tôi đã chết” như một bài thơ nào đó đã ghi lại. *** Vâng, Đà Lạt đẹp và hình như vẫn còn đang ngơ ngác vì những tang tóc chưa xong, lại phải cố thích hợp với những thay đổi bão bùng vừa tới. Nhưng dù sao, đó vẫn là nơi anh đã cho em biết thếnào là những ngọt ngào của tình ái gần và đắng cay lúc xa. Cũng ở đó, chúng ta đã có tất cả. Và cùng ý nghĩa ấy, khi không còn nhau nữa, chúng ta đã mất hết. Nhưng rất may, anh còn để lại cho em một giọt máu: Nguyễn Quang Uyển Diễm. Đà Lạt có thêm cư dân mới, nhưng cũng mất đi một số người đi.Đà Lạt có già hơn 100 tuổi nhưng Đà lạt vẫn đẹp và trẻ lại bằng thế hệ mới lớn. Biến cố 1975 vẫn còn như một vết thương khó lành. Những người cũ bỏ đi. Những người mới vừa tới. Đà Lạt hình như vẫn ngơ ngác, chưa hoàn toàn thích hợp với hoàn cảnh.Đà Lạt vẫn thơm trong gió thông, vẫn xanh mướt những rừng cà phê, vẫn ngọt những miếng khoai mật. Hoa dã quỳ vẫn nở vàng những lối đi quen, như mỉm cười trong nắng gió. Nhắc nhở người xa hãy nhớ. Đừng quên có mắt ai trongđuôi lá xanh. Lấp lánh….để cành ngẩn ngơ. Hồ Xuân Hương vẫn là tấm gương để Đà Lạt tự soi lấy mình. Và bằng đôi mắt trong tâm tưởng, em vẫn nhìn thấy anh trong đó.
Những thác Cam Ly, rừng Ái Ân, hồ Than Thở…những tên gọi không ngớt mang âm hưởng của những hồi chuông ngân nga, nhắc lại cho tôi một thời hạnh phúc. Nhưng tôi cùng (Uyển Diễm) hôm nay đã trở về, tìm được sự ấm áp trong không gian phòng trà Căn Nhà Xưa của ca sĩ Thu Minh.***
Phòng trà tọa lạc dưới một con dốc nhỏ gần khu chợ Đà Lạt. Người ca sĩ chủ nhân này có mái tóc dài buông xõa trên vai . Một dáng dấp rất sinh viên. Những sợi tóc mây ôm nhẹ nhàng gương mặt hiền hòa. Một vẻ đẹp tự nhiên không phấn son trang điểm. Thu Minh thanh thoát ôm cây ghi ta, những ngón tay thon lướt trên hàng phím, âm thanh réo rắt. Một bài hát của Trịnh Công Sơn vang lên trong tôi như gợi nhớ một Quán Văn năm xưa trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa Saigon đường Tạ Thu Thâu. Thu Minh với dáng dấp và giọng hát rất sinh viên. Phòng trà Căn Nhà Xưa vào mỗi buổi tối là nơi hẹn hò của những tâm hồn yêu nhạc xưa, loại nhạc vàng, nhạc tiền chiến. Họ đến và hát cho nhau nghe với một cây ghi ta, piano, và dàn trống. Một không gian xinh xắn, đẹp một cách nghệ thuật và ấm cúng, do chính nữ chủ nhân tự tay thiết kế, trang trí bằng những trái thông khô. Không gian ấm cúng huyền ảo này đã cho tôi tìm thấy một chút thương yêu, gần gũi của một Đà Lạt thuở nào tuổi thanh xuân. Vâng, Đà Lạt vẫn âm vang những bài hát cũ, nhất là những bài hát viết ra từ Đà Lạt, hát công khai, hát hết mình, hát như những người đã từng sống trong kỷ niệm. Nhiều nhạc sĩ viết nên những ca khúc bất hủ. Nay đã chết. Một trong những người viết ra những bài hát ấy, nay cũng không còn nữa : Lê Uyên Phương. Em lên ngày mai Đường gió trăng cài Mong em từng giây Rộn ràng như ngây Ô hay mùa Đông mà xuân đến lâng lâng Ô hay mùa Đông mà mà mai đã lên bông Vì gót chân in dấu ân tình Hoa lá ngỡ như mùa xuân Mùa xuân ái ân
KHUYẾT DANH
|
|
|
Post by long on Sept 6, 2020 15:16:59 GMT -6
NỖI NHỚ MUỘN MÀNG
Theo chân chồng ra sân bay, tôi như người trong cơn mộng du. Giá có gương soi, chắc khuôn mặt mình đẹp não nùng bởi dấu son kỷ niệm. Chỉ nhắm mắt hồi tưởng, bao khuôn mặt và nhân dáng đi qua trong đời. Tuy vậy, lòng yêu đời tha thiết và ham sống mãnh liệt vẫn không chịu chấp nhận cho mình là già.
Dù trời đã sang thu, một đôi khi, thiên nhiên nổi cơn cuồng nộ; con đường loang loáng ướt như sắc diện người đàn bà vừa mới khóc: tuy còn buồn nhưng khuây khỏa. Những chiếc lá bắt đầu chuyển màu, từ vàng au sang đỏ úa, chậm chạp lìa cành, và rơi tơi tả trong không, bên bờ đường. Giữa biên giới của Sống-Chết, sự sinh tồn vẫn tiếp diễn.
Đời là một cuộc phiêu lưu kỳ thú đầy đam mê. Mỗi lần thu xếp vào valise để khởi đầu bằng một chuyến đi xa, tôi lại nao nức một cách kỳ lạ. Và tiếng thời gian có sức mê hoặc tuyệt vời, dẫn dụ ta vào cuộc chơi đuổi bắt không ngừng. Ta đã lao vào đó với bàn tay ngưỡng vọng chờ đón những hoài bão thần tiên. Cho đến một lúc nào, ngẫu nhiên, trong một sự im lặng đến rợn người, những hoài niệm từ tiềm thức qua ký ức; ngự trị ở đấy và đưa ta sống thêm một lần nữa trong tuổi thơ ngọt ngào, quá khứ bình yên của từng sợi mưa, từng giọt nắng.
Cũng chẳng mấy phức tạp để ly khai thực tại. Chỉ cần mảng trời xanh hay vần vũ u ám mưa bay, một điệu nhạc cũ, một áng thơ xưa hay một khuôn mặt thân quen cũng đủ hấp lực để vận chuyển cánh cửa quá khứ. Như nhân vật của Jean-Paul-Sartre, một mình xuống phố trong cảm thức cô đơn giữa đông đảo dòng người. Đám đông không có sức tác động trên một cá nhân, và, đời sống nột tại với những diễn biến tâm lý sinh đông hơn nhiều.
Chuyến bay thả đám du khách xuống Las Vegas, nơi ánh đèn rực rỡ muôn màu của chốn cờ bạc về đêm. Từ đây về San Diego không mấy xa, địa danh được xem là một trong những miền có khí hậu tốt. Những căn nhà nằm trên đồi trông ra biển. Biển ở đâu cũng xanh. Laguna Beach. Những cánh chim phiêu bạt giang hồ. Những nhà hàng đẹp, điểm xuyết bởi tàn cây và hoa, được thiết kế mỹ thuật tinh vi. Ocean Side; ngày mới quen nhau, tôi đã đi với chàng, bằng bước chân rộn ràng. Đâu hẳn là yêu mà lòng xôn xao. Cũng chẳng phảng phất buồn, mà chỉ quạnh quẽ một niềm chơi vơi, tản mạn như khói thuốc, chờn vờn hư không. Nhìn cây, tưởng cây muốn nói. Nghe gió, tưởng gió thở dài. Nhìn anh, em chỉ thấy một sự yên lặng vây quanh. Đêm vẫn mênh mông buồn.
Những suy nghĩ của thời quá khứ, hiện tại, vị lai quyện vào nhau như đám chỉ rối lãng đãng như sương. Nếu con người là một hiện tượng vong thân thì tôi đã tìm thấy bản ngã mình trong một ý thức phản hồi. Khi ngôn ngữ không còn là một cần thiết. Khi yên lặng không phải là vô ngôn. Ý niệm về “Tình Yêu” cứ váng vất lởn vởn trong đầu. Tình yêu là một sự hoá thân vào đối tượng để trở thành một ý thức nô lệ hay tự do? Dù gì đi nữa, tình yêu vẫn là một đề tài muôn thuở. Tình yêu không bao giờ già. Tình yêu luôn luôn trẻ trung, thánh hoá. Nhưng dòng tư tưởng bị ngắt quãng bởi một nguồn sáng chói loà. Đó là ánh đèn pha chiếu tứ phía lia từng khuôn mặt một của nhân viên an ninh xét người di dân lậu, trước khi đến thủ phủ định cư của cộng đồng người Việt: Khu Little-Saigon. Những con đường đã trở nên dấu yêu; chỉ thấp thoáng nghe qua cũng đã dấy lên một nỗi vui dịu dàng, một đầm ấm bâng khuâng. Nắng đã ấm và trải dài đại lộ: Bolsa, như tên một người yêu. Sống một nơi và nghĩ về một nơi. Bằng liên tưởng và hồi tưởng:
“Ai mang tôi đến chốn này, Bên kia không óc, bên này không tim” (Doãn-Quốc-Sĩ)
Câu thơ xưa vang lên trong tôi như một dòng nhạc thánh thót buồn, một khúc luân vũ. Những freeway loanh quanh như vòng danh lợi. Những toà nhà cao như đỉnh trời, thần tiên hoang tưởng của xứ nghỉn lẻ một đêm như Disneyland. Tôi như còn thấy một góc của County từ Orange-Hills; nơi nếu không tìm đến là cả một sự sai lầm khó quên, có Valet parking, có trai thanh gái lịch; có ánh nến thay cho đèn vàng khi bóng chiều chạng vạng, khi cây cối đã trở màu in trên nền trời, khi sương đã xuống và đêm sâu. Thế giới của sự Riêng-Tư. Và đêm bỗng trở nên diệu vợi Vô-Cùng. Cửa tiệm và gian hàng đã đóng, lòng đuờng đã yên, sửa soạn cho một ngày mai nắng lên.
Newport-Beach. Hungtington-Beach rồi Long-Beach. Biển ở mọi nơi. Biển tạo nên những giấc mơ hải hồ, mộng viễn du. Biển giải tỏa những ức chế mà cuộc sống trên đất liền vẫn thường ngày vây hãm. Biển sóng vỗ vào ghềnh đá tạo thành những bọt trắng xoá và âm thanh ngàn đời. Biển và đàn cá hồn nhiên tung tăng bơi lội theo dòng. Biển vỗ về mơn trớn những chiếc du thuyền, những con tàu lướt đại dương khi trời quang mây tạnh, nhưng lại gầm thét khi gió rú mưa gào. Biển cũng là mồ chôn của bao sinh mạng. Biển bao la, bí ẩn như tình người, thăm thẳm vời vợi như đôi mắt tình nhân.
Có phải là một tâm trạng chung; khi trực diện trước sự im lặng thâm thúy của biển cả, con người đều trở nên trầm mặc, không màng đến điếu thuốc cháy đỏ trên môi để thầm hỏi lòng đã vì nỗi buồn hay khói thuốc làm cho cay mắt; hoặc một ly cà-phê trước mặt. Hình như lúc ấy thần trí cũng nghiễm nhiên buồn bã bỏ đi và quá khứ hoang vu lạc lối về. Khi niềm vui tiếng cười trở thành đơn điệu, lạc lõng đến sống sượng trước vẻ buồn kính cẩn trang nghiêm. Những con người thuộc tứ xứ đổ đến; tụ đấy rồi tan đấy. Những lời thăm hỏi lịch sự khuôn sáo vu vơ, quen nhau tình cờ rồi vội vàng chia xa, mỗi người đi theo con đường định mệnh của đời mình.
Tôi đến Universal Studios của Los Angeles khi nắng còn gắt dù đã chiều tà. Cơn nắng hanh của miền núi. Universal Studios là một khu vực riêng biệt, chiếm cứ một diện tích bát ngát của kỷ xảo phim trường. Khu Downtown với đại lộ Hoàng-Hôn, tên nghe đã thấy trữ tình. Beverly-Hills, Malibu của cảnh vàng son. Và tất cả rồi cũng quy tụ về Rose-Hills của nghìn thu yên tĩnh.
Tôi theo phà từ Newport-Beach trở lại San Diego, không quên đến đập thủy điện thuộc tiểu bang Nevada. Trước cảnh hùng vĩ của tạo vật, một mối buồn man mác xâm chiếm tâm tư khi nghĩ về thân phận nhỏ nhoi tầm thường của kiếp người. Thấy mình rất đỗi đáng thương như con sâu cái kiến. Từ San Diego tới biên giới Mễ-Tây-Cơ chỉ băng qua chiếc cầu. Hai cảnh đời hai sự sinh hoạt. Trung tâm Tijuana tấp nập từ đoàn xe đến dòng người. Từ những cửa hàng, kiosque; vui mắt như Hawaii, nhộn nhịp như Nassau, và huyên náo như Saigon. Giáp vòng ngoại ô là những cảnh hoang dã chưa được tận dụng khai thác. Đó đây, những ánh mắt trẻ con buồn thảm vì thiếu vắng tuổi thơ ngồi bên lề đường bán vài thứ hàng vặt vãnh. Những con chó khốn khổ chạy dọc theo lộ mon men kiếm ăn. Hình ảnh khó quên cứ tiềm tàng lắng đọng và ám ảnh hoài trong ký ức như đám sương mù dày đặc.
Có một cái gì rất đỗi đáng yêu và dễ mến trước một nụ cười khoan dung, một khuôn mặt khắc khổ vì nét hằn thời gian. Và cũng từ đó, phát xuất từ tâm, ý hướng về tha nhân như lời thư của Mère Alicia: “Tập đi đến tha nhân và sẽ tìm được niềm vui mà không ai có thể tước đoạt được”.
Dù vẫn biết bàn tay mình không ôm hết một vòng yêu. Thì cố gắng để khi suy niệm, cảm nhận sự tồn tại mình không vô nghĩa. Ai cũng có những giây phút độc thoại, nhũng khoảnh khắc trầm tư. Khi đó, ý thức và tôi là một hình bóng bất khả phân. Như Charlie Chaplin: “Tôi thích nhìn một người đàn ông buồn bã khuấy ly cà phê hơn là ngắm một hoả diệm sơn đang phun lửa”
Quả thật, nỗi buồn nào cũng gợi cảm và có một dung nhan đẫm lệ. Không phải là một đam mê, vì đam mê có tính cách nhất thời; cũng không là say mê sở thích, lại càng không phải là một thú vui vì thú vui là bản năng; nhưng là một hạnh phúc có thật, khi đối diện tôi là một tách cà phê nóng. Không gì bằng, ngắm thiên nhiên thay màu áo và nghe tiếng cà phê thong thả nhỏ từng giọt xuống thành ly. Đó là một âm thanh không vui chẳng buồn, mà chỉ bằng sự yên lặng tuyệt đối; ta mới lĩnh hội được: thời gian bỗng nhiên dừng lại, tất cả đều đã sa mù, nhạt nhoà phôi pha để chỉ còn lại một cõi ta.
Cà phê với tôi là cả một kỷ niệm, một thâm tình suốt lộ trình đời sống. Khởi nguồn từ, khi thấy bạn bè của hai ông anh đến chơi, rủ nhau ra tiệm cà phê chuyện gẫu; tự nhiên tôi sinh lòng thèm thuồng ao ước. Nhưng ước mơ đó chẳng bao giờ mọc cánh. Hình ảnh một người con gái vào tiệm cà phê một mình hay với bạn trai là một ấn tượng không hay. Mấy năm sau, cà phê giúp tôi thức khuya học thi. Vài ngày trước khi xảy ra tháng tư lịch sử, từ một biệt thự và đứng giữa khung trời rất đỗi bình yên của miền cao nguyên sương mù, tôi đã thấy những chiếc xe jeep phát xuất từ trường đi đi về về cả đêm. Chỉ cần nhìn qua lượng xe và tính cách di chuyển, tôi phỏng đoán có một điều gì nghiêm trọng đã hoặc sẽ xảy ra. Tiên cảm không sai. Tôi theo gia đình rời Dalat xuống Phan Rang tạm chạy trốn nguy. Trong cơn hoang mang giao động về tình hình đất nước, tôi vẩn tỉnh thức để khách quan nhận xét, quê hương mình nơi đâu cũng đẹp; như tên gọi, đèo Belle-Vue quả rất ngoạn mục.
Cũng tại đây, nguồn tin cho hay, trường Võ Bị Liên Quân được lệnh di tản xuống Long Thành. Có là cư dân mới hiểu được tầm ảnh hưởng quan trọng của trường đối với thị xã. Tại sao không phải là tử thủ? Trường rời bỏ căn cứ, chính thức hay tạm thời cũng đồng nghĩa là: Adieu Dalat. Farewell Dalat. Vĩnh biệt Dalat.
Những chiếc xe jeep hào hùng tạo nên lịch sử. Những chiếc xe jeep đi vào quá khứ, đánh mất tương lai; mà mỗi chiếc là một số phận kỳ bí và huyền nhiệm. Không phải điếu thuốc “Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình” (Thơ Đinh-Hùng) mà chính cà phê chiêu hồn dĩ vãng. Cầm tách cà phê trên tay, tôi như uống cạn một nỗi buồn: mộng đẹp trong đời đã cáo chung, tan tành bong bong, vỡ vụn thủy tinh để chỉ còn là ảo tưởng hoa sương. Dù bây giờ đang lênh đênh xứ người; đôi lúc vọng về cố hương, cảm một ngọn gió, một trận mưa nhưng tuyệt nhiên vắng tiếng thông reo, chỉ còn là vọng âm quá khứ.
Bergson nói: “Quá khứ luôn luôn có mặt trong hiện tại”. Cà phê với tôi là bạn đồng hành, chứng kiến bao cảnh tang thương của vật đổi sao dời. Những buổi tối trở về, sau xuất hát khuya; tôi gởi tiền cho một cuốc xe bằng hai tay cung kính, mà lòng rưng rưng, buồn như muốn khóc khi khám phá gốc tích của người vừa chở mình trên quãng đường cũng đã một thời oanh liệt. Phong cách ấy lẽ ra phải đứng giữa ba quân tiền hô hậu ủng và tôi sẽ chẳng bao giờ có được sự hân hạnh giáp mặt. Sao hồn tôi dậy sóng; nhớ về quá khứ xưa, xin chúc lành cho Người, một lần hạnh ngộ là duy nhất.
Cà phê gợi lại lên cho tôi nỗi nhớ muộn màng từ bờ bến này sang bến bờ kia; từ bát ngát xứ người đến tình tự góc trời quê hương, nhỏ bé nhưng yêu thương đậm đà. Đạt chân xuống mọi sân bay, từ Thái Lan, Nhật Bản đến Los Angeles, San Diego, San Francisco và Florida rồi cuối cùng, tôi cũng vẫn chỉ ngừng lại độc nhất ở mỗi một hình ảnh của phi trường dân sự Liên-Khương và quân sự Cam-Ly. Có đi hết một chân trời cũng chỉ thấy một khung trời. Có trực diện trước một vẻ đẹp lộng lẫy kiêu sa cũng chỉ thấy lòng mình khô khan như ngói.
Cũng chính cà phê đã khiến tâm hồn tôi rung động như một cánh bướm khi đọc bài thơ vào tuổi mười ba:
Nơi cà phê quán đặc Dạ hội tan từ lâu Còn gì mà thắc mắc Đời không là của nhau
Cuộc đời tình ái phức tạp của thế giới người lớn chỉ làm tôi mường tượng qua thi ca như sự tọc mạch của trẻ con trước một phòng tối. Chỉ đơn giản là thế không hơn. Năm tháng trôi qua. Chất cà phê đã thấy đắng hơn.Và vị ngọt ít đi. Giông tố cuộc sống thường ngày đã trỗi dậy.
Cà phê của hai mươi năm trước là quang cảnh trong một tiệm cà phê trang hoàng khá đẹp, trên con đường Trần-Quốc-Toản, và đối tượng tôi là một cựu sĩ quan. Anh vẫn thường bảo tôi có lối nói chuyện độc đáo, một khuôn mặt chinh phục thời gian hứa hẹn cho một viễn tượng tương lai hạnh phúc. Anh khen: - Dưới đèn vàng và qua màu cà phê trong suốt, mắt em đẹp vô tả
Tôi cũng cảm thấy vậy, Bởi vốn yêu hai thứ trong đời: đèn vàng và hương vị cà phê quyến rũ. Anh không quá lời. Anh nói đúng: ánh mắt, dứt khoát không phản ảnh men của yêu đương.
Dù trước đó là mẫu đối thoại nho nhỏ, hay hay, không kém phần thi vị: - Cho anh biết, em có chấp nhận tình yêu của anh không để anh còn tính.
Tôi không hiểu. Tình yêu là phép tính cộng, trừ, nhân, chia? Tôi hỏi lại: - Chấp nhận thì sao, mà không chấp nhận thì sao?
Anh không nói gì và tôi cũng không hỏi thêm. Giữa tình trạng nhiễu nhương của sinh hoạt xã hội, và đòi sống gia đình rời rạc phân tán; anh em thì người ở lại, người xuống “thuyền” xuất ngoại, làm “boat people”. Cha còn trong chốn lao tù không hẹn ngày về. Hạnh phúc cá nhân, nếu đề cập đến, chỉ là một điều không tưởng. Mà làm sao gọi là hạnh phúc?
Cũng chính anh là tác giả của những vần thơ:
… Em là nước quý Xin bỏ bình hồng Kẻo em tan mất Ta thẫn thờ trông Lời em mật ngọt Mắt em mộng mơ Đưa ta vào thơ Hồn ta ngây ngất…
Bài thơ được mang về cho cậu em trai. Không có lời bình. Dầu sao, cũng cảm ơn tình anh. Hai con đường song song không có chung một điểm.
Lại một bài thơ khác, một tác giả khác:
Tạ từ ngày ấy đã xa Thủy chung tôi vẫn xót xa một người Người đi mù mịt phương trời Tôi trong cô quạnh, rã rời xác thân Yêu em thêm vướng bụi trần Mãi trong tâm tưởng, bâng khuâng một đời Không gian thiếu vắng một người Thôi còn đâu nữa một thời mộng mơ
Cà phê của hai mươi năm sau, Mẫu đối thoại khác, lâm ly hơn, tình tự hơn khi chàng giúp tôi rửa chén dĩa: - Em xem này, phin cà phê anh rửa có trắng không?
Tôi đưa mắt nhìn. Đúng vậy. Và trắng như hoá đá. Như vừa được inoxydable.
Cảm kích trong cuộc sống chung, tuy nhiên, rất ung dung và rất Thiền, nhìn sâu vào mắt chàng, tôi chậm rãi đáp: - Anh không cần phải rửa ly và phin trắng cho em như vậy. Chất tanin của trà và cafein tạo thành cái hồn. Rửa trắng quá trông nhạt nhẽo như một người đàn bà không son phấn.
Anh yên lặng và em cũng im lặng. Tôi cũng không hiểu lý do vì sao mình lại nói được một câu như thế. Tại sao? Thôi, đừng hỏi; “Tại sao”.
Tạ Thị Bích Thủy
|
|
|
Post by long on Sept 8, 2020 17:24:48 GMT -6
TÂM TÌNH VỚI ĐÀ LẠT
Dalat ơi!
Đi chưa trọn nửa vòng nhân thế, bồng bềnh trong giấc mộng phù sinh, bất chợt phút giây, tâm tư trầm lắng, mãi ngồi đây, ta xin gọi thầm tên người, ta xin nghĩ về người với tấc lòng thiết tha chung thủy. Mơ hồ hóa thân với người, ta quay về quá khứ xa xôi, ta đang băn khoăn cùng hiện tại hay ta đang bay vào một ngày mai đang chờ đón ta ở một phương trời ngút ngàn viễn xứ.
Gần một trăm năm qua, thế nhân đã từng tôn vinh người với những danh từ hoa mỹ rung cảm dễ thương khắc đậm vào lòng người: Từ một hoang địa chập chùng đồi núi, giá buốt quanh năm, người biến thành Dalat, sáng kiến của bác sĩ YERSIN, một vị thầy thuốc nổi danh thế giới, đã khai sinh ra người. Hàm chứa bao ý nghĩa nhân sinh. DALAT, DAT ALLIS LATITIEM ALIIS TEMPERIEM, nơi đây cho người niềm vui, người khác khí hậu an lành. DALAT, nguồn suối của người Lat sinh sống rải rác ven từ hồ Than Thở đến tận thác Cam Ly. DALAT, niềm vui bất tận mà thiên nhiên ban phát.
Nhưng đối với tâm hồn văn nhân, thi sĩ, người từng là: - Xứ Lâm Viên, Xứ Hoa Đào, Xứ Thơ, Xứ Mộng. - Hoặc Thành Phố Ngàn Hoa, Thành Phố Mù Sương, Phố Thị Lưng Trời, Phố Núi Mây. - Hay Non Trà, Trà Sơn, Trà Lĩnh, huyền hoặc như nét Đường Thi có trước ngàn năm.
Dalat ơi!
Ta sinh ra trên mảnh đất xinh đẹp này của một góc trời quê hương nhân hậu.
Theo ngày tháng thời gian, ta lớn lên trong vòng tay nâng niu, tần tảo của hiền mẫu, ta trưởng thành dưới sự giáo huấn của nghiêm đường, giúp ta nhập cuộc dễ dàng vào dòng nhân thế, với dáng dấp nho nhã như một thư sinh - mà có ai hay biết rằng, bụi phấn trắng rơi đã bao lần rơi đậu trên mái tóc mỗi khi ta đứng trên bục giảng của học đường, hoặc có những đêm chong hoài ngọn đèn khuya, một mình ta thức sáng, cặm cụi soạn bài mà chung quanh tỉnh vật đang chìm trong giấc ngủ thật ngoan hiền.
Một ngọn gió ngược chiều làm ta bâng khuâng dừng lại. Giã từ trường học, ta đón nhận được thêm biết bao tình cảm của những người thân ruột thịt, của những bạn hữu tâm giao yêu thương quý trọng.
Ta xin khắc đậm tình nghĩa cưu mang đó, ta xin cảm nhận nghĩa tình cuộc đời với muôn vàn biết ơn.
Trong làn thuốc mong manh quyện tỏa, tâm thức ta cũng mơ hồ tản mạn, bồi hồi nghĩa về một cuộc chia ly nào đó với người, với tất cả từ đây, ta chỉ nhờ bạn ta vẽ lên những nét chân phương về người: Thành phố mình đang ở Xa một ngày đã nhớ đã thương Sớm mai phớt nhẹ nét mù sương Chiều tối vẽ lên vài làn sương mộng Khuya dù mưa tuôn ngày dù nắng đổ Đi giữa bốn mùa vẫn ngỡ là xuân Thành phố mình trang điểm màu xanh Trông hiền lành như bức tranh thủy mặc Góc độ nào nhìn vẫn đẹp vẫn xinh Ngàn thông bồng bềnh Triền rau xanh mướt Suối hồ ngọc bích Chen giữa biển trời hòa hợp nét thiên thanh ...
Sáng hôm nay, gió lạnh tàn đông héo hắt sắp lịm dần, hương xuân chớm bàng bạc núi đồi, cây cỏ, một vùng hoa xuân muôn màu muôn sắc bừng lên dưới bầu trời trong vắt rực sáng.
Ta vốn yêu hoa đào, nên những cành đào thướt tha đã vội thấp thoáng sân xa, cùng khắp, duyên dáng lộng ngọc thôn bản hoang sơ, điểm xuyết phố thị phồn hoa, thắp lên muôn triệu nền hồng kỳ diệu, hồng lên bao điều hẹn ước, ấm mãi lòng ta.
Từng cánh hoa, từng cánh hoa lay bay trước gió, xinh như hoa Anh Đào điểm trang dọc tường thành Đông Kinh hay ngã nghiêng soi mình trên bờ hồ Potomac.
Tất cả dịu dàng chào đón ánh dương quang, e lệ như môi hồng của người mình yêu trong một bản nhạc cũ của Hoàng Nguyên “Ai Lên Xứ Hoa Đào”, mà ngày giã từ Dalat, có du khách nào lại vô tình không đem theo một cành hoa kỷ niệm với những bản tình ca muôn điệu của thi nhân.
Dalat nổi danh là vương quốc muôn hoa. Mỗi một loài hoa gợi cảm một vần thơ, nốt nhạc, ghi là bao cuộc tình dễ thương đôi lứa tuổi hai mươi. Dalat quê hương ta Thành phố tình yêu và hoa bướm Tôi đã nghe đôi tình nhân thì thầm như thế Giữa lòng thành phố mùa hoa Hoa ửng hồng lên dưới nắng chan hòa Hoa đượm sắc trong màu xanh tươi thắm Hoa nở rộ giữa những ngày xuân ấm Càng ngã nghiêng bên hồ biếc rập rình Hoa vẫy tay chào đôi lứa đẹp xinh Hoa hứa hẹn những mùa xuân Đẹp trăm lần hơn thế Ôi một mùa hoa Nói với ta nhiều điều mới mẻ Và Quê Hương - Đất Nước - Con Người Từ góc độ cuộc đời Ta nhìn hoa nghĩa tình thấm thía Đất trời có hoa Đời người có nghĩa Anh dìu em đi bát ngát trời hoa Em ngẩng nhìn những cánh Mimosa Óng vàng nhung gấm Những đóa Hồng sương đọng Những cánh hoa “Xin Đừng Có Quên Em” Những cánh hoa hoang dại không tên Có cánh bướm non tơ Chập chờn theo sóng mắt Nhưng em ơi Có một loài hoa mà anh yêu quý nhất Loài hoa nào em có biết không em? Dalat ơi!
Nhưng vẫn có đôi ba lần, khi lòng chùng xuống, ta đành quay lưng với thành phố rộn rã dư âm, với ngàn hoa sắc thắm kiêu sa, để âm thầm, một mình rải dấu chân trên đồi Cù thơ mộng.
Dalat như thấp hơn, trời cao như gần lại và ta như một loài sâu nhỏ bé.
Đồi Cù thật đẹp. Đẹp tựa nét xuân sơn của nàng Thúy Nguyễn Du. Ta vui nhìn cỏ biếc dập dềnh sóng lụa thiên thanh nở hoa vàng hoe như gấm dệt. Ta mơ dõi bóng phù vân phiêu bồng vạn kiếp trên biển trời xanh vô định.
Dựa cội thông già, ta lắng nghe cành lá đùa sương gió, vang vọng mãi tình ca bất tận. Ta dạo bước bâng quơ, lãng khuây vài chuyện cũ, hồn lâng lâng thêm mùi thơm ngát trên đất mẹ: Lá mộng ngập ngừng bay chiếc chiếc Đường thơ tha thẩn dạo mình mình Một linh hồn nhỏ cùng thiên hạ Vô nhiễm từ lâu bụi thị thành Ta mến đất trời Dalat những ngày giao mùa vào hạ. Thanh sắc hiền lành như người em gái. Vào hè mà không tiếng ve rang thảnh thốt, không hoa phượng đỏ nhớ nhung làm áo não tim người.
Xứ Huế miền Trung, cố hương của ta, khi mùa hè tới, giọt nắng oi nồng. Đậm đặc, thiên hạ ngóng đợi một thoáng mát của hai ngọn Nam Nồm dành nhau thổi lại. Dòng biếc sông Hương lượn lờ dưới cầu Tràng Tiền, mảnh mai như chiếc trâm cài suối tóc, ngàn thông xanh núi Ngự bất động thắp lên vạn nến hồng cháy sém cả làng An Cựu bình yên.
Còn Saigon, nắng tha hồ thiêu đốt cháy da, ngột ngạt trong biển nóng. Những dòng xe, dòng người ngược xuôi như những dòng nước cuộn để trốn nắng, mặc dầu nắng đã núp trong vài cơn mưa hạ ngắn ngủi bất chợt ập xuống: Nằm trên biển nóng Saigon Mà nghe Dalat vẫn còn mưa sương Riêng ở phố núi Cao Nguyên này, khi màn sương đêm vừa tan thì mặt trời ban mai cũng vừa choàng một lớp ánh sáng mỏng manh lên núi đồi, hoa cỏ, trải từng nhung lụa lên khắp các nẻo đường tơ cài thêu lên lá, lên hoa, thì thầm trên mái nhà, mặt đất âm vang, tựa như khúc nhạc mưa rơi trên phố thị, buôn làng, khắp núi đồi cô tịch.
Trong khoảnh khắc lành lạnh đó, ta thỉnh thoảng rong bước dọc theo những đường phố quen thuộc mà chân không biết mệt, hay lặng lẽ ngồi một mình dưới thềm hiên nhà cũ rêu phong, nghe trong giọt mưa mùa hạ mường tượng có giọt mưa thô. ...
Và phút chia tay Chưa kịp lời từ giã Xuân vừa tàn nắng rơi về phương đó Chiều tháng tư mưa rớt lại nơi này Mùa hè Dalat đó, ấm áp như mùa xuân, dịu hiền như mùa thu và đôn hậu như mùa đông.
Dalat ơi!
Có những chiều thu, khi nắng vàng nhung nhớ hiu hắt tan vỡ đó đây trên hồ Xuân Hương sóng sánh, xinh như làn thu thủy của cô Kiều Tố Như - gió thu mơn man ru nhẹ thông ngàn, ngân lên một điệu đàn thu tha thiết, thấm đậm vào hồn ta khi màn đêm chập chờn rũ xuống. Ta đang mơ hóa thành chiếc bướm, và dù đôi cánh mỏng có ướt dầm sương thu lạnh, cũng muốn bay ngút ngàn tìm lại một ngày thu rực óng, hay biến mình qua rừng thu xào xạc, giúp chiếc lá xa cành thực hiện một cuộc viễn trình về nguồn cội.
Có những đêm thu trên Thủy Tạ, ta mãi ngồi lặng im, nương theo làn sóng vô thanh luân vũ mặt hồ, nhìn sương sa mờ ảo đỉnh tháp Hùng Vương, quyện giăng nhạt nhòa cầu Ông Đạo, trầm mặc bên ly cà phê đậm nóng, hoặc ly rượu thơm nồng, ta bất chợt búng lên tàn thuốc cháy vẽ vòng vào đêm khuya vắng tựa hồ một vì sao đổi ngôi giữa vòm trời hiu lạnh.
Ánh trăng huyền ảo ngự trên trời. Trăng đậu giữa cành thông. Trăng treo tận đỉnh Lâm Viên. Trăng mênh mông soi thung lũng cô liêu, trăng vỡ mơ màng trên suối ngọc. Dalat tắm trong biển trăng. Dalat trôi theo dòng trăng man mác, ngọt ngào như sữa mẹ. Dòng trăng tràn ngập cả hồn ta.
Ta xin mời trăng ngồi lại với thi nhân. Ta cùng trăng kể lại cuộc phong trần. Và trăng đã gọi thu về cho sơn khách tình tự. Áo trắng cũng buồn như mây trắng. Hiu quạnh, lạnh lùng, người ơi! Chập chùng nỗi nhớ gởi về đâu! Cuối thu vời vợi thấy mênh mang Chờ đợi ai trong sáng điểm sương Bàng bạc thuyền mây trời sắc ngọc Đăm đăm chốn cũ dáng người thương Gió im khe khẻ lời son sắt Nắng ửng mơ say má đỏ hường Này gió đã ba ngày mộng nhớ. Đời càng nên sống ngát tình Xuân Dalat ơi!
Ta lại mời người cùng ta tung tăng lên phố Hòa Bình, con tim của Dalat, nơi gặp gỡ tình người. Những con đường huyết mạch quy tụ về đây, bao giờ cũng uốn mình quanh co dưới bóng thông xanh, bao giờ cũng lên xuống nhịp nhàng giữa dãy nhà kiến trúc muôn vẻ, muôn mầu, bao giờ cũng yểu điệu như tà áo lụa nết na của người em gái ngày xưa.
Dừng chân bên lề đường, dẫu lẻ loi trước dòng nhân thế ngược xuôi, tha nhân cũng thấy lòng ấm lại, rung cảm một niềm quyến luyến vô hạn với tấm lòng hiếu khách của người Dalat. Bạn ta nói tiếp về người: Thành phố mình đang ở Còn có ai đâu mà bỡ ngỡ Quanh một vòng ta gặp gỡ nhau Môi điểm nụ chào Tay bắt thật chặt Chân tình như nhạc như hoa Hoa thơm quyện lòng đất Hoa thắm ngát tình người Nhạc xây dựng đời Nhạc gieo hy vọng Nhạc gọi tương lai Thành phố mình sao mãi dễ thương Thôi thúc tình người không ngừng nhẫn nại vươn lên Đỉnh cao Hòa Bình vẫy đợi Mà những con đường như đưa máu dội về tim Vạn kỷ không quên thành phố của mình. Dalat ơi!
Ta thành tâm mường tượng, bên cạnh những cành hoa nết na tươi đẹp của Dalat còn có những cành hoa Đàm Vô Ưu lung linh nở hương đạo trước Phật Đài Linh Sơn cổ kính hay Quan Âm Tự thanh u, còn có những cành hoa trong trắng bừng hương bác ái dưới giáo đường Nhà Thờ Dalat.
Ta mong ước khúc nhạc đời của người hòa lên cùng những hồi chuông khi ngân nga, lúc thánh thót đó đây mai chiều trên mãnh đất Dalat muôn thuở thanh bình.
Dalat từng vinh hạnh là một trung tâm văn hóa quốc gia với: Viện Đại Học Thụ Nhân Dalat, Trường Võ Bị Liên Quân, Đại Học Quân Sự, các trường thuộc ảnh hưởng Pháp ngày xưa Grand Lycée Yersin, Petit Lycée Yersin, Couvent des Oiseaux, Domaine de Marie, phần đông dành cho các học sinh những gia đình giàu có, danh gia vọng tộc, song ta lại mến yêu những ngôi trường tiểu học đơn sơ, thanh cảnh ở khóm, phường đông đảo cư dân chân chất, nhất là trường trung học nam sinh Trần Hưng Đạo và nữ sinh Bùi Thị Xuân, đã từng dìu dắt ta dưới sự giáo huấn nghiêm minh của thầy cô, từ tuổi ấu thơ, để vững lòng từng bước đi trên đường văn học, đến khi trưởng thành góp mặt với đời. Các em Mai chiều hai buổi Những bước chân của tuổi học trò Những bước chân ngây thơ bướm hoa thành phố Theo giữa dòng đời xa lạ Ươm một niềm tin Từng lớp, từng hàng Sách vở là hành trang Gió mây là bạn đồng hành Khi vòng quanh nghĩa địa Lúc lên xuống đồi Ngỡ trường xa xôi hơn cả bên kia thế giới Đi hoài không mỏi Đi tìm tiếng gọi tương lai... Những bước rong chơi bỗng dưng đưa ta cùng người bạn vong niên nhiều tuổi một lần ngồi uống cà phê bụi giữa lòng chợ Dalat xinh đẹp nhất cả nước. Chung quanh sự ồn ào sôi động của thế nhân, âm thanh nói cười vụn vỡ của thiên hạ, hai người vẫn an nhiên cùng nhau xướng họa: Trong lòng sâu quán chợ Chốn tận cùng nhân gian Chuyện thế dâng trôi nổi Tình thơ đong ngút ngàn Xôn xao bờ mộng ảo Lóng lánh cõi chân thường Phước địa vô lượng kiếp Còn thoang thoảng kỳ hương Tình thơ phơi quán chợ Rộn rã tiếng trần gian Âm vang xa suối đông Trầm lặng nhánh mây ngàn Nắng mưa đong huyễn hóa Ngày tháng động vô thường Lũng sâu choàng tỉnh giấc Ngan ngát tỏa tâm hương. Giờ đây, Dalat cùng ta vui chân xuôi về một con đường quê huyền sử, nét bình yên bên lòng thành phố. Con đường thoai thoải đi lên, nghiêng nghiêng chảy xuống, có đá ngủ triệu năm, có hoa Trạng Nguyên hồng lên chào đón. Con đường còn mang tên một danh nhân ái quốc Việt Nam - Nguyễn Biểu - dài sâu hun hút, chưa tròn trăm thước rộng vừa sãi tay người mà thế nhân lại chưa đi trọn đời đạo hạnh. Con đường còn mang tên Dốc Nhà Làng, không vương gió bụi, không có ngựa xe qua mà bồng bềnh sương khói. Con đường đưa dần ta vào huyền thoại, ngược lên 4.000 năm lịch sử vinh quang để bắt gặp hình dáng quê hương nguyên thủy.
Mai chiều, bốn mùa qua lại, thân thuộc với đường xưa, ta bồi hồi, hơn một lần gởi gắm ít nhiều tâm sự: Mây trôi im ỉm bóng thời gian Bao vết chân qua ngút đoạn trường Thềm đá lặng ru tròn giấc mộng Bãi rêu bừng ngát vỡ mùa sương Nhịp đời chồng chất trong bình dị Mạch sống khơi tràn giữa luyến thương Đi suốt một đời con Dốc nhỏ Vẫn yêu hoài lối mộng quê hương. Có một người em gái không quen, dáng dấp tiểu thư, sáng tinh sương đã vội bày vài chồng sách cũ trên đá lạnh bán cho khách lại qua, gợi lên một hình ảnh hoài cảm xa xưa: Bình minh vừa bừng nở Cây cỏ dậy sắc hương Em bày dăm sách cũ Bên đường bán văn chương Sỏi đá ơi dễ thương Suốt đời im tiếng nói Hồn không vương gió bụi Trong giấc ngủ vô thường Lá cành xuyên hoa nắng Hương chữ nghĩa xôn xao Em nghiêng vành nón mộng Nghe giọng nói ngọt ngào Đường đưa vào huyền sử Hun hút nẻo vô biên Bờ xa làn nước đổ Chan hòa trong tịch nhiên Giữa hai chiều xuôi ngược Sao nhân thế rộn ràng Ai vui tròn hạnh phúc Ai lận đận trần gian Và Xuân Hạ Thu Đông Bốn mùa đong thương nhớ Em về bên xóm nhỏ Nghe Dốc Làng bâng khuâng Còn người bạn tâm giao, một chiều ghé thăm ta, khi ra về đã ghi lại một bài thơ trữ tình lãng mạn dễ thương chi lạ: Con phố thênh thang rẽ chỗ này Chân sa lũng thấp tưởng lừng mây Nhà ai hoa nở bên bờ dậu Tỏa ngát hương nồng ngợp gió bay Ôi con đường Dốc mỗi lần đi Gợi nhớ khêu thương đến lạ kỳ Không một gốc cây người đứng nghỉ Mỗi tầng cấp nặng một tình si Em làm con gái năm mười sáu Dalat xanh hoài mái tóc thơm Ta có một lần như lãng tử Bước chân chết lặng một chiều hôm Ngôi nhà ta dựa bên sườn núi Hoa Trạng Nguyên hồng năm bảy ngón tay Ta hỏi vì sao mình lạc lối Để ngàn năm nhớ mãi tóc em bay. Nhà ta đứng giữa lưng chừng Dốc, một nếp nhà cổ kính thanh thanh. Mười mấy năm qua, như tổ ấm đã chở che gia đình ta vui sống những ngày tháng thực sự bình yên của một đời thường, song đầy ấp tình yêu thương trọn vẹn. Xin mời Dalta, xin mời khách thơ dừng chân bên hiên Duyệt Ưng, đong đưa ài câu đối đỏ mừng xuân, có giàn Thảo Lan bốn mùa hoa nở - có bể cạn lô nhô vài phiến đá hồng hoang tượng hình Hồng Lĩnh, Quế Sơn soi bóng nước trong vắt như dòng Lam Thủy quê hương của cụ Tiên Điền Nguyễn Du: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Hiên Duyệt Ưng sẽ đưa khách thăm phòng thơ nho nhỏ Lan Hinh. Ở đây gom góp ít nhiều thi phú của bằng hữu quý mến. Mỗi tiếng thơ thể hiện một phong cách, một nét đặc thù riêng, diễn đạt thuần nhiên và khiêm từ tình cảm của mỗi người, ca tụng màu sắc cẩm tú, tình nghĩa đậm đà quê hương, ngợi ca tình người, tình bạn và cả tình yêu lãng đãng. Một ngày đó, những mảnh giấy hoa văn kia, nếu đã rã rời dưới lớp bụi thời gian thì hương thơ của kim bằng nhất định sẽ kết đọng trong tâm hồn ta mãi mãi.
Dalat ơi!
Giờ đây, cùng ta nhẹ gót dạo một vòng thành phố nhé. Xuôi Dốc Làng và băng qua đại lộ Phan Đình Phùng - con đường Cầu Quẹo cũ - giờ đây nhà cửa sầm uất - ta hồi tưởng chiếc cầu gỗ Cửu Huồn mảnh mai vắt qua con lạch nhỏ, nước từ hồ Vạn Kiếp đổ về nhà mà nhớ lại những ngày thơ ấu. Cho ta đến xóm Lò Gạch, thăm lần cuối người bạn vong niên thân kính. Ngôi nhà nằm bên một con đường hẽm cụt, sỏi đá gồ ghề, cỏ dại len mặt đất, tỉnh lặng như một sơn am mà: Vậy đó thân thương vài bạn đến Hàn huyên quên cả chuyện hàn vi Rồi đường quê đưa chân ta về Huyện Mọi. Thác Cam Ly cận kề, dòng nước đổ bên đường. Lặng đứng nghe thác tỉ tê cùng đá lạnh rêu xanh. Lưng chừng sườn núi còn thấp thoáng vài túp nhà sàn cũ kỹ hun khói của đồng bào thượng chưa muốn trở lại rừng sâu. Vài cánh chim chiều chao cỏ biếc Một làn gió muốn động cành dương Đầy vơi thác có cùng mưa nắng Mà biết đâu rồi khách viễn phương Vòng qua cầu Bá Hộ Chúc ta đến Dốc Nhà Bò. Đâu còn nghe tiếng gầm gừ của đàn bò xa xưa nhai cỏ, đâu còn âm thanh khô khan của những vành sắt xe bò đổ rác siết trên đường đá chông chênh.
Trại Hầm nằm âm thầm cuối sâu một thung lũng đồi núi quanh quanh. Vẫn ngôi chùa Linh Phong thanh tịnh, ẩn hiện cảnh tỉnh. Vẫn còn sót lại vài gốc mận già cằn cỗi đã từng cho ta những chùm trái mọng chín lườm, hương vị ngọt thơm làm tê lịm bờ môi của tuổi học trò.
Ta trèo lên đỉnh Gió Hú, sẽ kiểng chân nhìn về hồ Than Thở. Một chấm làn nước đục. Đâu còn nữa tiếng thở than của lau lách vọng lại. Giờ đây đã lặng câm bên Đồi Thông Hai Mộ, một nửa vùng đồi bên kia biến thành những vườn rau xanh trơ trọi, xốn xang.
Ta xin thành chim bay ngược lên hướng Bắc, thăm qua những địa danh phát nguyên từ dân gian: như cây số 4, số 6, như cây số 9, số 12 và mãi tận Tùng Lâm, Kim Thạch, Mang Linh, Suối Vàng. Một vùng đồi núi chập chờn, tròn trỉnh tựa những viên ngọc bích, phủ nhẹ cỏ biếc nhung tơ, điểm xuyến những cụm nhà sơn thôn êm ả, muôn thuở thanh bình dưới chân đỉnh Núi Bà hiền hậu.
Phong cảnh thiên nhiên như thủy mặc sao mà đẹp xinh, thanh tú, những địa danh sao mà bình dị, hồn nhiên như tình người Dalat vậy.
Đi hơn nửa vòng Dalat, đành dừng lại trên đèo Prenn, ngõ đưa du khách vào thăm thành phố. Dalat ơi, cùng ta nhìn một góc Lê Nguyễn Gia Viên thơ mộng hiện đang khép lại một vùng trời kỷ niệm. Lê Nguyễn Gia Viên lưỡng phiến tình Hồi đầu vãng sự diệc kham kinh Vân quy lĩnh ngoại vô thường cuộc Yến tập pha đầu thị túc duyên Tái tửu hạnh tồn tam kính thú Tòng tâm nhiệm suất tuyệt trần biên Giang sơn hương bội thành giai trúc Tạo giã long phi chính tại thiên Lê Nguyễn Gia Viên những phiến tình Quay nhìn chuyện cũ nghĩ mà kinh Mây bay ngoài núi vờn cơn mộng Yếu tụ đầu đèo kết mối duyên Chuốc rượu nay còn ba lối tắt Chìêu lòng mong được một trời thanh Dựa vào non nước xây lều cỏ Thỏa nguyện như rồng vẫy cõi tiên. Dalat ơi!
Ta muốn in dấu chân khắp cùng Dalat, song chân ta quá mỏi. ta muốn ôm trọn Dalat trong vòng tay, song tay ta lại quá ngắn. Ta muốn nhìn từng ngọn cỏ lá cây, nhưng núi rừng bạt ngàn đã ngăn che tầm mắt của ta rồi.
Dẫu mai này, như cánh gió ngàn phương, như bóng mây vạn lối, mảnh hồn ta xin nguyện chung thủy ở bên cạnh những người thân ruột thịt, bên cạnh bạn hữu thiết thân và với Dalat mến thương, mà một thời đã dành cho ta biết bao nghĩa tình thâm sâu quý trọng.
Thôi chào Dalat nhé!
Dalat ơi!
Phạm Việt Trang
|
|